Giải vô địch bóng đá châu Âu 2012
2012 UEFA European Championship - Poland/Ukraine Mistrzostwa Europy w Piłce Nożnej 2012 (tiếng Ba Lan) Чемпіонат Європи з футболу 2012 (tiếng Ukraina) | |
---|---|
Creating History Together Razem tworzymy przyszłość Творимо історію разом "Cùng nhau làm nên lịch sử" | |
Chi tiết giải đấu | |
Nước chủ nhà | Ba Lan Ukraina |
Thời gian | 8 tháng 6 – 1 tháng 7 |
Số đội | 16 |
Vị trí chung cuộc | |
Vô địch | Tây Ban Nha (lần thứ ba) |
Á quân | Ý |
Thống kê giải đấu | |
Số trận đấu | 31 |
Số bàn thắng | 76 (2,45 bàn/trận) |
Số khán giả | 1.440.896 (46.481 khán giả/trận) |
Vua phá lưới | Mario Mandžukić Mario Gómez Mario Balotelli Cristiano Ronaldo Alan Dzagoev Fernando Torres (cùng 3 bàn) |
Cầu thủ xuất sắc nhất | Andrés Iniesta |
Giải vô địch bóng đá châu Âu 2012 (hay còn gọi là Euro 2012) là giải bóng đá vô địch châu Âu lần thứ 14, do Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) tổ chức. Vòng chung kết được tổ chức tại Ba Lan và Ukraina từ ngày 8 tháng 6 đến 1 tháng 7 năm 2012. Đây là lần đầu tiên hai quốc gia này đăng cai giải đấu sau khi được Ủy ban điều hành UEFA lựa chọn vào năm 2007. Đây cũng là kỳ Euro lần thứ 3 trong lịch sử và cũng là lần thứ 2 liên tiếp có hai quốc gia đồng đăng cai.[1]
Đây cũng là mùa giải cuối cùng có 16 đội tuyển tranh tài. Từ Euro 2016 trở đi, vòng chung kết có 24 đội. Vòng sơ loại bao gồm 51 đội tuyển tham dự từ tháng 8 năm 2010 đến tháng 11 năm 2011. Giải được tổ chức tại 8 sân vận động, trong đó có 5 sân là được xây mới. Ngoài các sân vận động, hai nước chủ nhà còn đầu tư rất lớn vào việc cải thiện cơ sở hạ tầng, chẳng hạn như đường sắt và đường bộ, theo yêu cầu của UEFA.
Trận đấu mở màn của giải là trận hòa 1–1 giữa chủ nhà Ba Lan và Hy Lạp trên Sân vận động Quốc gia tại Warszawa vào ngày 8 tháng 6 còn trận đấu cuối cùng diễn ra trên sân vận động Olympic, Kyiv, Ukraina, nơi Tây Ban Nha đã có chiến thắng 4–0 trước Ý.[2] Tây Ban Nha trở thành đội đầu tiên bảo vệ thành công chức vô địch châu Âu, và là đội tuyển châu Âu đầu tiên giành 3 danh hiệu lớn liên tiếp (trước đó là Euro 2008, World Cup 2010). Tuy vậy, do Tây Ban Nha đã được nhận một suất tham dự Cúp Liên đoàn các châu lục 2013 nhờ vô địch World Cup 2010 nên đội á quân Ý sẽ là đại diện cho UEFA tham dự giải đấu trên.[3]
Đây cũng là lần thứ 2 liên tiếp (sau kỳ Euro 2008 tổ chức tại Áo và Thụy Sĩ) chứng kiến các đội tuyển chủ nhà không thể vượt qua vòng bảng.
Cuộc đua giành quyền đăng cai[sửa | sửa mã nguồn]
Ban đầu có 7 quốc gia tranh quyền đăng cai tổ chức chung kết Euro 2012 bao gồm: Croatia–Hungary, Hy Lạp, Ý, Ba Lan–Ukraina và Thổ Nhĩ Kỳ.[4]
Ngày 8 tháng 11 năm 2005, UEFA rút ngắn xuống còn 3 lựa chọn:[5]
Ngày 31 tháng 5 năm 2006, 3 ứng cử viên trên đã hoàn thành giai đoạn hồ sơ thứ hai trước khi UEFA tiến hành khảo sát thực trạng vào tháng 9.[6] Dự kiến quyết định cuối cùng công bố vào ngày 8 tháng 12 năm 2006 tại Nyon đã bị hoãn lại nhằm tạo nhiều thời gian chuẩn bị hơn cho các bên tham gia giành quyền cai.[7]
Sau cùng, Liên minh Ba Lan-Ukraina được lựa chọn sau cuộc bỏ phiếu của Ủy ban điều hành UEFA tại Cardiff vào ngày 18 tháng 4 năm 2007.[1] Trong số các ứng cử viên khác, Ý là quốc gia giành nhiều lợi thế nhất.[8] Tuy vậy, nước này lại thất bại bởi vụ bê bối tham nhũng trọng tài và những vấn đề rắc rối liên quan đến cổ động viên bóng đá [9] và Ba Lan-Ukraina đã vượt qua Croatia–Hungary để trở thành cặp đôi thứ 3 giành quyền đăng cai giải vô địch bóng đá châu Âu, sau Bỉ–Hà Lan (2000) và Áo–Thụy Sĩ (2008). Đây là một giải đấu có hai nước chủ nhà[10].
Khẩu hiệu[sửa | sửa mã nguồn]
“Creating History Together” là khẩu hiệu chính thức của Euro 2012 có nghĩa là “Cùng nhau tạo nên lịch sử” mang hàm ý hai quốc gia lần đầu tiên có vinh dự đăng cai ngày hội bóng đá lớn nhất lục địa già mong muốn tổ chức một kỳ Euro thành công.
Các sân vận động[sửa | sửa mã nguồn]
8 thành phố đã được UEFA lựa chọn làm địa điểm đăng cai giải đấu. Tương tự các lần tổ chức vào năm 1992, 1996 và 2008, các trận đấu của mỗi bảng được tổ chức tại hai sân vận động khác nhau. Không giống Donetsk và Kharkiv, hai thành phố được lựa chọn làm nơi đăng cai thay Dnipropetrovsk năm 2009,[11] các thành phố chủ nhà như Warszawa, Gdańsk, Wrocław, Poznań, Kyiv và Lviv đều là các địa điểm du lịch nổi tiếng.
Để đáp ứng yêu cầu của UEFA đối với những cải thiện về cơ sở hạ tầng bóng đá, 5 sân vận động mới đã được xây dựng và mở cửa trước giải đấu, 3 sân vận động còn lại (ở Kiev, Poznań và Kharkiv) đã trải qua những sửa đổi lớn để đáp ứng được các tiêu chuẩn cơ sở hạ tầng của UEFA.[12][13] 3 trong số các sân vận động kể trên đã được UEFA đánh giá rất cao về chất lượng. Hệ thống giao thông tại Ba Lan và Ukraina cũng được mở rộng theo yêu cầu của UEFA để đối phó với làn sóng lớn cổ động viên đổ về.[14]
UEFA cũng tổ chức các khu vực dành riêng cho cổ động viên (fan zone) tại 8 thành phố chủ nhà ở vị trí nằm giữa trung tâm mỗi thành phố. 31 trận đấu được tường thuật trực tiếp trên các màn hình khổng lồ. Khu fan zone giúp người hâm mộ có thể cổ vũ trong một môi trường an toàn và có kiểm soát.[15] Khu Fan Zone Warszawa có diện tích 120.000 m² và sức chứa lên đến 100.000 người. Tính tổng thể, các khu fan zone tại Euro 2012 có sức chứa tăng 20% so với Euro 2008.[16]
Ba Lan | |||
---|---|---|---|
Warszawa | Wrocław | Gdańsk | Poznań |
Sân vận động Quốc gia | Sân vận động Wrocław | PGE Arena | Sân vận động Miejski |
Sức chứa: 58.580 | Sức chứa: 45.105 | Sức chứa: 43.615 | Sức chứa: 43.269 |
Ba Lan | Ukraina | ||
Ukraina | |||
Kyiv | Donetsk | Kharkiv | Lviv |
Sân vận động Olympic | Donbass Arena | Sân vận động Metalist | Arena Lviv |
Sức chứa: 70.050 | Sức chứa: 52.187 | Sức chứa: 40.003 | Sức chứa: 34.915 |
Trại đóng quân[sửa | sửa mã nguồn]
Mỗi đội tuyển đều có một "trại đóng quân" là nơi luyện tập và cư trú của các cầu thủ trong suốt giải đấu.[17] Từ một danh sách sơ bộ 38 địa điểm ban đầu (21 tại Ba Lan, 17 tại Ukraina),[18] các liên đoàn bóng đá quốc gia đã lựa chọn địa điểm của họ trước khi tham dự Euro 2012. 13 đội đóng quân tại Ba Lan và 3 đội tại Ukraina.[19]
Đội tuyển | Bắt đầu | Trận cuối | Trại đóng quân | Địa điểm vòng bảng | Địa điểm Tứ kết | Địa điểm Bán kết | Địa điểm Chung kết |
---|---|---|---|---|---|---|---|
Croatia | 5 tháng 6 | 18 tháng 6 | Warka Gần Warszawa | Gdańsk và Poznań | |||
Cộng hòa Séc | 3 tháng 6 | 21 tháng 6 | Wrocław | Wrocław | Warszawa | ||
Đan Mạch | 4 tháng 6 | 17 tháng 6 | Kołobrzeg | Kharkiv và Lviv | |||
Anh | 6 tháng 6 | 24 tháng 6 | Kraków | Kyiv và Donetsk | Kyiv | ||
Pháp | 23 tháng 6 | Donetsk | Donetsk | ||||
Đức | 3 tháng 6 | 28 tháng 6 | Gdańsk | Kharkiv và Lviv | Gdańsk | Warszawa | |
Hy Lạp | 22 tháng 6 | Jachranka Gần Warszawa | Warszawa và Wrocław | ||||
Cộng hòa Ireland | 5 tháng 6 | 18 tháng 6 | Sopot Gần Gdańsk | Gdańsk và Poznań | |||
Ý | 1 tháng 7 | Kraków | Kyiv | Warszawa | Kyiv | ||
Hà Lan | 4 tháng 6 | 17 tháng 6 | Kraków | Kharkiv | |||
Ba Lan | 28 tháng 5 | 16 tháng 6 | Warszawa | Warszawa và Wrocław | |||
Bồ Đào Nha | 4 tháng 6 | 27 tháng 6 | Opalenica Gần Poznań | Kharkiv và Lviv | Warszawa | Donetsk | |
Nga | 3 tháng 6 | 16 tháng 6 | Warszawa | Warszawa và Wrocław | |||
Tây Ban Nha | 5 tháng 6 | 1 tháng 7 | Gniewino Gần Gdańsk | Gdańsk | Donetsk | Donetsk | Kyiv |
Thụy Điển | 6 tháng 6 | 19 tháng 6 | Kyiv | Kyiv | |||
Ukraina | Kyiv và Donetsk |
- Ba Lan
- Ukraina
Vòng loại[sửa | sửa mã nguồn]
Lễ bốc thăm vòng loại Euro 2012 được tổ chức tại Warszawa vào ngày 7 tháng 2 năm 2010.[20] 51 đội tuyển tham dự cạnh tranh nhau cho 14 suất tham dự vòng chung kết, cùng với đồng chủ nhà Ba Lan và Ukraina. Các đội được chia thành chín bảng, với việc bốc thăm sử dụng hệ số đội tuyển quốc gia mới của UEFA để xác định các đội hạt giống.
Vòng loại khởi tranh từ tháng 8 năm 2010 và kết thúc vào tháng 11 năm 2011. 9 đội đứng đầu các bảng cùng với đội nhì có thành tích tốt nhất sẽ được vào vòng chung kết. 8 đội nhì bảng còn lại sẽ tham dự trận play-off hai lượt đi và về, đội thắng cuộc trong mỗi cặp đấu sẽ giành vé đến Ba Lan và Ukraina.
Các đội tham dự[sửa | sửa mã nguồn]
Tính từ Euro 1996, có tất cả 16 đội tuyển quốc gia được tham dự vòng chung kết. Tuy vậy, một vài liên đoàn thành viên UEFA bày tỏ mong muốn mở rộng giải đấu lên 24 đội, mặc dù số thành viên UEFA hầu như không thay đổi kể từ lần cuối mở rộng năm 1996 (53 đội vào tháng 4 năm 2006 so với 48 đội tại Euro 1996).[21] Vào tháng 4 năm 2007, Ủy ban điều hành UEFA ra quyết định chính thức bác bỏ việc mở rộng tại Euro 2012.[22]
12 trong 16 đội vào vòng chung kết từng góp mặt tại Euro 2008, trong khi đó đội tuyển Anh và đội tuyển Đan Mạch, đội từng tham dự Euro 2004 đã trở lại sau 8 năm vắng mặt. Đội tuyển Cộng hòa Ireland lần thứ 2 tham dự sau 24 năm vắng mặt. Đương kim vô địch Euro 2008, Tây Ban Nha, trở lại để bảo vệ danh hiệu của họ. Nếu Tây Ban Nha vô địch Euro 2012, họ sẽ trở thành đội bóng châu Âu đầu tiên đoạt 3 danh hiệu lớn (châu lục và thế giới) liên tiếp: Euro 2008, World Cup 2010 và Euro 2012. Tây Ban Nha cũng từng một lần vô địch vào năm 1964, khi họ là nước chủ nhà. Một trong đội đồng chủ nhà, Ukraina, lần đầu tham dự với tư cách là một quốc gia độc lập, dù đã từng vô địch giải đấu này khi còn là một phần của Liên Xô.
16 đội tuyển quốc gia tham dự vòng chung kết Euro 2012:[23]
Quốc gia | Tham dự với tư cách | Ngày lọt vào | Các lần tham dự trước1 |
---|---|---|---|
Ba Lan | Đồng chủ nhà | 18 tháng 4 năm 2007 | 1 (2008) |
Ukraina | 0 (lần đầu) | ||
Đức2 | Nhất bảng A | 2 tháng 9 năm 2011 | 1972, 1976, 1980, 1984, 1988, 1992, 1996, 2000, 2004, 2008) | 10 (
Nga3 | Nhất bảng B | 11 tháng 10 năm 2011 | 9 (1960, 1964, 1968, 1972, 1988 với tư cách là Liên Xô), (1992, 1996, 2004, 2008) |
Ý | Nhất bảng C | 6 tháng 9 năm 2011 | 7 (1968, 1980, 1988, 1996, 2000, 2004, 2008) |
Pháp | Nhất bảng D | 11 tháng 10 năm 2011 | 71960, 1984, 1992, 1996, 2000, 2004, 2008) | (
Hà Lan | Nhất bảng E | 6 tháng 9 năm 2011 | 8 (1976, 1980, 1988, 1992, 1996, 2000, 2004, 2008) |
Hy Lạp | Nhất bảng F | 11 tháng 10 năm 2011 | 3 (1980, 2004, 2008) |
Anh | Nhất bảng G | 7 tháng 10 năm 2011 | 71968, 1980, 1988, 1992, 1996, 2000, 2004) | (
Đan Mạch | Nhất bảng H | 11 tháng 10 năm 2011 | 71964, 1984, 1988, 1992, 1996, 2000, 2004) | (
Tây Ban Nha | Nhất bảng I | 6 tháng 9 năm 2011 | 81964, 1980, 1984, 1988, 1996, 2000, 2004, 2008) | (
Thụy Điển | Nhì bảng xuất sắc nhất | 11 tháng 10 năm 2011 | 4 (1992, 2000, 2004, 2008) |
Croatia | Thắng trận Play-off | 15 tháng 11 năm 2011 | 31996, 2004, 2008) | (
Cộng hòa Séc4 | 71960, 1976, 1980, 1996, 2000, 2004, 2008) | (||
Bồ Đào Nha | 51984, 1996, 2000, 2004, 2008) | (||
Cộng hòa Ireland | 11988) | (
- 1 In đậm: vô địch năm tham dự. in nghiêng: (đồng) chủ nhà.
- 2 Từ năm 1972 đến 1988, Đức tham dự vòng chung kết giải vô địch bóng đá châu Âu với tên gọi Tây Đức
- 3 Từ năm 1960 đến 1988, Nga tham dự vòng chung kết giải vô địch bóng đá châu Âu với tên gọi Liên Xô và năm 1992 với tên gọi Cộng đồng các Quốc gia Độc lập
- 4 Từ năm 1960 đến 1980, Cộng hòa Séc tham dự vòng chung kết giải vô địch bóng đá châu Âu với tên gọi Tiệp Khắc
Phân nhóm và bốc thăm chia bảng[sửa | sửa mã nguồn]
Lễ bốc thăm cho vòng chung kết diễn ra vào ngày 2 tháng 12 năm 2011 tại Cung điện Nghệ thuật Ukraina, thành phố Kiev, Ukraina.[24][25] Buổi lễ kéo dài một giờ được tổ chức bởi Olga Freimut và Piotr Sobczyński, người dẫn chương trình đến từ hai nước chủ nhà.
Giống như vòng chung kết năm 2004 và 2008, 16 đội được chia thành 4 nhóm dựa trên hệ số xếp hạng đội tuyển quốc gia của UEFA.[26][27] Phân nhóm các quốc gia dựa vào kết quả các trận đấu diễn ra trước ngày 16 tháng 11 năm 2011.[28] Từ đó, hệ số nhóm quốc của 16 đội được tính theo công thức:
- 40% hệ số trong các trận đấu trong vòng loại của Giải vô địch bóng đá châu Âu giai đoạn 2012.
- 40% hệ số trong các trận đấu trong vòng chung kết World Cup 2010.
- 20% hệ số trong các trận đấu vòng loại và vòng chung kết của Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008.
Là đồng chủ nhà, Ba Lan và Ukraina được xếp vào nhóm 1 (nhóm hạt giống), cùng với Tây Ban Nha, đương kim vô địch giải đấu và Hà Lan.[27]
Nhóm đội số 2, có các đội Đức, Ý, Anh và Nga. Ở nhóm đội số 3 là Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Croatia và Thụy Điển. Nhóm đội số 4 bao gồm Pháp, CH Séc, CH Ireland và Đan Mạch. Cả bốn nhóm đội trước lễ bốc thăm được đánh giá là trình độ không đồng đều giữa các đội trong cùng nhóm.[29]
Có rất nhiều khả năng xảy ra "bảng tử thần" vì Tây Ban Nha và Hà Lan có thể đối mặt Đức, Ý, Anh (nhóm 2), Bồ Đào Nha (nhóm 3) và Pháp (nhóm 4). Dĩ nhiên, người hâm mộ chờ đợi những bảng đấu như thế để VCK Euro 2012 càng đáng được chờ đợi hơn, nhưng hẳn là bản thân các đội lại không muốn.[30]
Trong quá trình bốc thăm, 4 đội trong mỗi bảng đến từ 4 nhóm khác nhau.[30] Việc rút thăm được thực hiện bởi 4 cựu cầu thủ từng là thành viên các đội tuyển vô địch châu Âu: Horst Hrubesch, Marco van Basten, Peter Schmeichel và Zinedine Zidane.[31]
Sau đây là kết quả phân nhóm và bốc thăm chia bảng:
Nhóm 1 | Nhóm 2 | Nhóm 3 | Nhóm 4 |
---|---|---|---|
Trọng tài[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 20 tháng 12 năm 2011, UEFA đã lên danh sách 12 trọng tài và 4 trọng tài bàn cho vòng chung kết Euro 2012. Ngày 27 tháng 3 năm 2012, UEFA công bố danh sách 80 trọng tài sẽ được sử dụng tại Euro 2012, bao gồm cả trợ lý trọng tài, trọng tài phụ sau cầu môn, và 4 trọng tài dự bị.[32] Mỗi tổ trọng tài sẽ có năm người đến từ cùng một quốc gia: một trọng tài chính, hai trợ lý trọng tài, và hai trọng tài phụ sau cầu môn. Tất cả các trọng tài chính, trọng tài sau cầu môn, và trọng tài bàn đều là trọng tài cấp FIFA, và các trợ lý trọng tài (kể cả bốn trợ lý dự bị) cũng đều là trợ lý trọng tài cấp FIFA.[33][34] Ngoài ra, mỗi nhóm trong tài của một nước sẽ có một trợ lý trọng tài dự phòng, người sẽ thay thế đồng nghiệp của mình nếu có yêu cầu được đưa ra trước khi giải đấu bắt đầu.[35] Tính đến thời điểm Euro 2012 khởi tranh, đã có hai sự thay đổi trợ lý với tổ trọng tài của Pháp và Slovenia. Lần đầu tiên tại giải vô địch bóng đá châu Âu, sau khi có sự chấp thuận của IFAB, UEFA sẽ sử dụng hai trợ lý trọng tài đứng sau cầu môn tương tự như các cuộc thử nghiệm từng áp dụng tại UEFA Champions League và UEFA Europa League.[36]
- Trọng tài bắt chính trận chung kết.
|
|
Vòng bảng[sửa | sửa mã nguồn]
Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (GMT +2) tại Ba Lan và (GMT+3) tại Ukraina
Hai đội đầu bảng lọt vào tứ kết, hai đội cuối bảng bị loại.[38] Bắt đầu từ giải đấu 2016, vì việc mở rộng lên 24 đội nên có vòng 16 đội và 4 đội xếp thứ ba có thành tính tốt nhất sẽ được vào vòng đấu loại trực tiếp (tức vòng 16 đội)[39].
- Tiêu chí xếp hạng
Nếu hai hoặc nhiều đội bằng điểm sau vòng bảng, các tiêu chí sau sẽ được áp dụng để xếp hạng. Tiêu chí xếp trên được áp dụng trước.[40][41]
- Giành nhiều điểm hơn trong các trận đối đầu trực tiếp
- Hiệu số bàn thắng cao hơn trong các trận đối đầu trực tiếp (nếu có trên hai đội bằng điểm)
- Ghi nhiều bàn thắng hơn trong các trận đối đầu trực tiếp (nếu có trên hai đội bằng điểm)
- Trong trường hợp có trên hai đội bằng điểm, sau khi áp dụng các tiêu chí trên, vẫn có hai đội bằng điểm thi các tiêu chí đó lại áp dụng lần nữa với riêng hai đội. Nếu vẫn chưa quyết định được thì áp dụng các tiêu chí tiếp theo
- Hiệu số bàn thắng cao hơn trong các trận vòng bảng
- Ghi nhiều bàn thắng hơn trong các trận vòng bảng
- Nếu hai đội bóng gặp nhau lượt cuối vòng bảng, sau trận đấu mà có tất cả các tiêu chí trên bằng nhau và chỉ có hai đội đó bằng điểm thì họ sẽ tiến hành sút luân lưu sau trận đấu. Nếu không sẽ áp dụng các tiêu chí tiếp theo.
- Điểm số trên Bảng xếp hạng các đội tuyển quốc gia châu Âu
- Hệ số chơi đẹp (fair play) tại vòng bảng
- Bốc thăm
Chú thích: do điểm số trên Bảng xếp hạng các đội tuyển là khác nhau nên hai tiêu chí cuối cùng sẽ không cần phải sử dụng trong giải này.
Bảng A[sửa | sửa mã nguồn]
Đội | ST | T | H | B | BT | BB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Cộng hòa Séc[a] | 3 | 2 | 0 | 1 | 4 | 5 | −1 | 6 | Tứ kết |
Hy Lạp | 3 | 1 | 1 | 1 | 3 | 3 | 0 | 4[b] | |
Nga | 3 | 1 | 1 | 1 | 5 | 3 | +2 | 4[b] | |
Ba Lan (H) | 3 | 0 | 2 | 1 | 2 | 3 | −1 | 2 |
(H) Chủ nhà
Ghi chú:
Ba Lan | 1–1 | Hy Lạp |
---|---|---|
Lewandowski 17' | Chi tiết | Salpigidis 51' |
Nga | 4–1 | Cộng hòa Séc |
---|---|---|
Dzagoev 15', 79' Shirokov 24' Pavlyuchenko 82' | Chi tiết | Pilař 52' |
Hy Lạp | 1–0 | Nga |
---|---|---|
Karagounis 45+2' | Chi tiết |
Bảng B[sửa | sửa mã nguồn]
Đội | ST | T | H | B | BT | BB | HS | Đ | Giành quyền tham dự |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Đức | 3 | 3 | 0 | 0 | 5 | 2 | +3 | 9 | Tứ kết |
Bồ Đào Nha | 3 | 2 | 0 | 1 | 5 | 4 | +1 | 6 | |
Đan Mạch | 3 | 1 | 0 | 2 | 4 | 5 | −1 | 3 | |
Hà Lan | 3 | 0 | 0 | 3 | 2 | 5 | −3 | 0 |
Đức | 1–0 | Bồ Đào Nha |
---|---|---|
Gómez 72' | Chi tiết |
Bồ Đào Nha | 2–1 | Hà Lan |
---|---|---|
Ronaldo 28', 74' | Chi tiết | Van der Vaart 11' |
Bảng C[sửa | sửa mã nguồn]
Đội tuyển | St | T | H | B | Bt | Bb | Hs | Điểm |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tây Ban Nha | 3 | 2 | 1 | 0 | 6 | 1 | +5 | 7 |
Ý | 3 | 1 | 2 | 0 | 4 | 2 | +2 | 5 |
Croatia | 3 | 1 | 1 | 1 | 4 | 3 | +1 | 4 |
Cộng hòa Ireland | 3 | 0 | 0 | 3 | 1 | 9 | −8 | 0 |
Tây Ban Nha | 4–0 | Cộng hòa Ireland |
---|---|---|
Torres 4', 70' Silva 49' Fàbregas 83' | Chi tiết |
Bảng D[sửa | sửa mã nguồn]
Đội tuyển | St | T | H | B | Bt | Bb | Hs | Điểm |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Anh | 3 | 2 | 1 | 0 | 5 | 3 | +2 | 7 |
Pháp | 3 | 1 | 1 | 1 | 3 | 3 | 0 | 4 |
Ukraina | 3 | 1 | 0 | 2 | 2 | 4 | -2 | 3 |
Thụy Điển | 3 | 1 | 0 | 2 | 5 | 5 | 0 | 3 |
Ukraina được xếp trên Thụy Điển nhờ thành tích đối đầu tốt hơn (2–1).
Ukraina | 2–1 | Thụy Điển |
---|---|---|
Shevchenko 55', 62' | Chi tiết | Ibrahimović 52' |
Vòng đấu loại trực tiếp[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ tóm tắt[61][sửa | sửa mã nguồn]
Tứ kết | Bán kết | Chung kết | ||||||||
21 tháng 6 – Warsaw | ||||||||||
Cộng hòa Séc | 0 | |||||||||
27 tháng 6 – Donetsk | ||||||||||
Bồ Đào Nha | 1 | |||||||||
Bồ Đào Nha | 0 (2) | |||||||||
23 tháng 6 – Donetsk | ||||||||||
Tây Ban Nha (p) | 0 (4) | |||||||||
Tây Ban Nha | 2 | |||||||||
1 tháng 7 – Kyiv | ||||||||||
Pháp | 0 | |||||||||
Tây Ban Nha | 4 | |||||||||
22 tháng 6 – Gdańsk | ||||||||||
Ý | 0 | |||||||||
Đức | 4 | |||||||||
28 tháng 6 – Warsaw | ||||||||||
Hy Lạp | 2 | |||||||||
Đức | 1 | |||||||||
24 tháng 6 – Kyiv | ||||||||||
Ý | 2 | |||||||||
Anh | 0 (2) | |||||||||
Ý (p) | 0 (4) | |||||||||
Tứ kết[sửa | sửa mã nguồn]
Anh | 0–0 (s.h.p.) | Ý |
---|---|---|
Chi tiết | ||
Loạt sút luân lưu | ||
Gerrard Rooney Young Cole | 2–4 | Balotelli Montolivo Pirlo Nocerino Diamanti |
Bán kết[sửa | sửa mã nguồn]
Bồ Đào Nha | 0–0 (s.h.p.) | Tây Ban Nha |
---|---|---|
Chi tiết | ||
Loạt sút luân lưu | ||
Moutinho Pepe Nani Alves | 2–4 | Alonso Iniesta Piqué Ramos Fàbregas |
Chung kết[sửa | sửa mã nguồn]
Vô địch Euro 2012 Tây Ban Nha Lần thứ ba |
Thống kê[sửa | sửa mã nguồn]
Bàn thắng[sửa | sửa mã nguồn]
- 3 bàn
- 2 bàn
|
|
|
- 1 bàn
- phản lưới nhà
- Glen Johnson (trận gặp Thụy Điển)
Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]
- Cầu thủ xuất sắc nhất
- Đội hình tiêu biểu của UEFA
Ủy ban kỹ thuật UEFA được giao nhiệm vụ lên danh sách 23 cầu thủ xuất sắc nhất trong suốt giải đấu. Một nhóm gồm 11 chuyên gia phân tích sẽ theo dõi từng trận đấu tại giải trước khi đưa ra quyết định của họ sau trận chung kết. 10 cầu thủ của nhà vô địch Tây Ban Nha đã được góp mặt trong đội hình tiêu biểu, trong khi Zlatan Ibrahimović là cầu thủ duy nhất trong danh sách tới từ một đội bị loại ở vòng bảng.
- Chiếc giày vàng
Danh sách cầu thủ ghi nhiều bàn nhất tại Euro 2012 [71][72] | ||||
---|---|---|---|---|
Cầu thủ | Bàn thắng | Kiến tạo | Phút thi đấu | |
Fernando Torres[73] | ||||
Mario Gomez | ||||
Alan Dzagoev | ||||
Mario Mandžukić | ||||
Mario Balotelli | ||||
Cristiano Ronaldo |
Trong trường hợp số bàn thắng bằng nhau, Chiếc giày vàng sẽ được trao cho cầu thủ kiến tạo nhiều nhất. Nếu số lần kiến tạo vẫn bằng nhau, cầu thủ có thời gian thi đấu ít nhất tại giải sẽ giành danh hiệu. Fernando Torres mặc dù cùng có 3 bàn thắng như 5 cầu thủ khác và cũng có một lần kiến tạo như Mario Gómez song anh vẫn giành danh hiệu vua phá lưới nhờ thi đấu ít hơn Gómez.[74] Torres đồng thời cũng trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bàn trong hai trận chung kết Euro.[75] Tuyển thủ Hà Lan, Klaas-Jan Huntelaar là cầu thủ ghi nhiều bàn nhất tại Euro 2012 (tính cả vòng loại) với 12 bàn thắng.[76]
Tiền thưởng[sửa | sửa mã nguồn]
Thứ hạng | Đội tuyển | Tiền thưởng (Tr.€)[77] |
---|---|---|
1 | Tây Ban Nha | 23,0 |
2 | Ý | 19,5 |
3 | Đức | 16,0 |
4 | Bồ Đào Nha | 15,0 |
5 | Anh | 12,5 |
6 | Cộng hòa Séc | 12,0 |
7 | Pháp, Hy Lạp | 11,5 |
9 | Croatia, Nga | 10,5 |
11 | Đan Mạch, Ukraina | 10,0 |
13 | Ba Lan, Thụy Điển | 9,0 |
15 | Hà Lan, Cộng hòa Ireland | 8,0 |
Tổng cộng có tất cả 196 triệu € tiền thưởng sẽ được trao cho 16 đội tham dự Euro 2012, cao hơn so với 184 triệu € tiền thưởng tại giải đấu trước. Mỗi đội tuyển tham dự vòng chung kết sẽ được nhận 8 triệu € và sau đó nhận thêm khoản tiền khác dựa trên kết quả thi đấu của họ.[78] Tây Ban Nha, đội vô địch Euro 2012, được trao thưởng tổng cộng 23 triệu € cho thành tích mà họ đạt được.[79] Tiền thưởng tối đa cho một đội (nếu thắng tất cả các trận vòng bảng và trận chung kết) là 23,5 triệu €.
Cơ chế giải thưởng như sau:
- Vô địch: 7,5 triệu €
- Á quân: 4,5 triệu €
- Bán kết: 3 triệu €
- Tứ kết: 2 triệu €
- Đứng thứ 3 vòng bảng: 1 triệu €
- Thắng một trận vòng bảng: 1 triệu €
- Hòa một trận vòng bảng: 0,5 triệu €
Ngoài tiền thưởng, một bức phù điêu kỉ niệm được trao cho tất cả các đội tham dự vòng chung kết cùng với đó là bức phù điêu đặc biệt cho đội thua trận bán kết và chung kết. Huy chương vàng và bạc được trao cho đội vô địch và á quân trong khi cả hai đội thua trận bán kết được trao huy chương đồng. Chiếc cúp vô địch vẫn thuộc quyền sở hữu của UEFA; tuy vậy, đội vô địch sẽ được nhận một bản sao đầy đủ kích thước để giữ làm kỉ niệm.[80]
Thẻ phạt[sửa | sửa mã nguồn]
Tại vòng chung kết, cầu thủ bị treo giò trận kế tiếp nếu bị phạt thẻ đỏ hoặc nhận đủ hai thẻ vàng ở hai trận khác nhau. Ủy ban kiểm soát và kỉ luật UEFA có quyền tăng số trận treo giò cho một cầu thủ nếu anh ta vi phạm các lỗi nghiêm trọng (như có hành vi bạo lực). Cầu thủ nhận một thẻ vàng sẽ được xóa sau khi kết thúc vòng tứ kết, và không bị tính tại vòng bán kết (do đó cầu thủ chỉ bị treo giò trận chung kết nếu nhận thẻ đỏ trong trận bán kết). Thẻ vàng cảnh cáo và số trận cấm thi đấu do tích lũy đủ thẻ vàng không được tính vào các trận đấu tại vòng loại World Cup 2014.[81] Tại Euro 2012, các cầu thủ sau bị treo giò một hay nhiều trận do dính thẻ đỏ hoặc nhận đủ số thẻ vàng:
Cầu thủ | Thẻ phạt | Treo giò | Ghi chú |
---|---|---|---|
Wayne Rooney | trận gặp Montenegro, vòng loại Euro | Trận gặp Pháp, bảng D Trận gặp Thụy Điển, bảng D | Cấm thi đấu do nhận thẻ đỏ trận cuối bảng G, vòng loại Euro 2012[82] |
Sokratis Papastathopoulos | trận gặp Ba Lan, bảng A | Trận gặp Cộng hòa Séc, bảng A | |
Wojciech Szczęsny | trận gặp Hy Lạp, bảng A | Trận gặp
|