Roma

Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng).
Roma
—  Thành phố thủ đôcomune  —
S.P.Q.R. Roma Capitale
Theo chiều kim đồng hồ tính từ trên cùng: Đấu trường La Mã, Vương cung thánh đường Thánh Phêrô tại Vatican, Lâu đài Thiên Thần, sông Tiber đoạn Cầu Thiên Thần, Đài phun nước Trevi và Đền Pantheon

Hiệu kỳ

Huy hiệu
Tên hiệu: Urbs Aeterna
Thành phố vĩnh hằng

Urbs Septicollis
Thành phố 7 ngọn đồi

(Các) biệt danh khác: Limina Apostolorum
Ngai của các vị Thánh
Khẩu hiệuSenātus Populusque Rōmānus
"Viện Nguyên lão và Nhân dân La Mã"
Phạm vi của thành phố Roma (Roma Capitale, màu đỏ) nằm bên trong Thành phố đô thị Roma Thủ đô (Città Metropolitana di Roma Capitale, màu vàng). Khoảng trắng nhỏ ở giữa là Thành quốc Vatican.
Phạm vi của thành phố Roma (Roma Capitale, màu đỏ) nằm bên trong Thành phố đô thị Roma Thủ đô (Città Metropolitana di Roma Capitale, màu vàng). Khoảng trắng nhỏ ở giữa là Thành quốc Vatican.
Roma trên bản đồ Ý
Roma
Roma
Roma trên bản đồ Châu Âu
Roma
Roma
Vị trí bên trong nước Ýchâu Âu
Quốc gia Ý[a]
Vùng Lazio
Tỉnh Thành phố đô thị Roma Thủ đô
Người sáng lậpRomulus (thần thoại)
Tổ chức hành chính15 quận (municipio)
Chính quyền
 • KiểuĐô thị cấp huyện (loại đặc biệt)
 • Thành phầnHội đồng thành phố Roma
 • Thị trưởngVirginia Raggi
Diện tích
 • Thành phố1.285 km2 (496 mi2)
 • Thành phố đô thị5.363 km2 (2,071 mi2)
Độ cao21 m (69 ft)
Độ cao cực đại139 m (456 ft)
Độ cao cực tiểu0 m (0 ft)
Dân số (31 tháng 12 năm 2019)
 • Thứ hạngĐứng 1 ở Ý, thứ 3 tại EU
 • Mật độ2.236/km2 (5,790/mi2)
 • Thành phố2.868.782[1]
 • Thành phố đô thị4.355.725[2]
Tên cư dântiếng Ý: Romano (nam), Romana (nữ), Romani (số nhiều)
tiếng Anh: Roman/Romans
Các múi giờCET (UTC+1)
CEST (UTC+2)
Mã bưu chính00100; 00118 đến 00199
Mã điện thoại06
Thành phố kết nghĩaParis (duy nhất)
Thánh bảo hộThánh PhêrôPhaolô Tông Đồ (29 tháng 6)
Trang webComune di Roma
Tên chính thứcTrung tâm lịch sử thành Roma, các tài sản thuộc Tòa Thánh nằm trong thành phố hưởng đặc quyền lãnh thổ ngoại vi và Thánh Phaolô Ngoại thành
Tham khảo91
Công nhận1980 (Kỳ họp 4)
Diện tích1.431 ha (3.540 mẫu Anh)

Roma (tiếng Latinhtiếng Ý: Roma [ˈroːma] ; còn phổ biến với tên gọi Rome trong tiếng Anhtiếng Pháp hay La Mã theo phiên âm Hán Việt) là thủ đô của nước Ý và là một đô thị cấp huyện (comune) loại đặc biệt (có tên đầy đủ là Comune di Roma Capitale – nghĩa là "Thành phố Roma Thủ đô"), đồng thời đóng vai trò là thủ phủ vùng Lazio trung tâm của quốc gia này. Roma là thành phố lớn nhất và đông dân thứ hai ở Ý (chỉ sau thành phố Napoli) với hơn 2,87 triệu cư dân trong phạm vi 1.285,3 km².[1] Đây là thủ đô đông dân thứ ba của Liên minh châu Âu, sau BerlinMadrid, tính theo số dân sinh sống bên trong phạm vi thành phố. Roma cũng đồng thời là nòng cốt của Thành phố đô thị Roma Thủ đô với hơn 4,3 triệu cư dân, do đó là thành phố đô thị đông dân nhất của nước Ý.[2] Được xây dựng trên địa thế đặc biệt của bảy ngọn đồi, Roma tọa lạc theo hạ lưu dòng Tiber gần nơi cửa sông đổ ra Địa Trung Hải thuộc Trung Tây của bán đảo Ý, khu vực Latium lịch sử. Thành quốc Vatican, quốc gia nhỏ nhất thế giới,[3] là một đất nước độc lập nằm trong lòng Roma, đây là ví dụ duy nhất về một quốc gia nằm trọn vẹn bên trong lãnh thổ của một thành phố; cũng vì lý do này mà Roma thường được xem là thủ đô lưỡng quốc.[4][5]

Lịch sử Roma trải dài 28 thế kỷ. Mặc dù thần thoại La Mã đặt mốc thời gian thành lập Roma vào khoảng năm 753 TCN, tuy nhiên thành phố đã có mặt cư dân sinh sống lâu hơn thế, khiến nó trở thành một trong những khu định cư lâu đời nhất có con người vẫn đang tiếp tục sinh sống tại châu Âu.[6] Là cái nôi thứ hai của nền văn minh phương Tây sau Athens với cư dân ban đầu có nguồn gốc hỗn hợp từ người Latinh, EtruscaSabine, thành phố sau đó trở thành thủ đô của Vương quốc La Mã, Cộng hòa La MãĐế quốc La Mã. Trong thời kỳ này với câu thành ngữ nổi tiếng "Mọi con đường đều dẫn đến La Mã", quyền lực của Roma phủ khắp phần lớn châu Âu, Bắc Phi và vươn đến Trung Đông, thống trị cả về quân sự lẫn văn hóa, là đầu não của một trong những nền văn minh vĩ đại nhất lịch sử, có ảnh hưởng toàn diện và sâu rộng đến xã hội, ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, quy hoạch đô thị, kỹ thuật dân dụng, triết học, tôn giáo, luật phápphong tục xuyên suốt trong nhiều thế kỷ tiếp theo. Thành phố lúc bấy giờ là nơi cư ngụ của từ một đến hai triệu dân của thế giới cổ đại, khiến nó trở thành đô thị triệu dân đầu tiên của thế giới cũng như được nhận định là đại đô thị kiểu mẫu trung tâm đầu tiên của nhân loại.[7] Roma ban đầu được gọi là Thành phố vĩnh hằng (tiếng Latinh: Urbs Aeterna) bởi thi hào Tibullus người La Mã trong thế kỷ thứ nhất TCN và ý tưởng đó đã được Ovidius, VergiliusLivius tiếp nối.[8][9] Thành phố còn nổi tiếng với danh hiệu "Caput Mundi" trong tiếng Latinh có nghĩa là Kinh đô thế giới.[10][11] Được mở rộng đáng kể bởi các công trình vĩ đại dưới thời Julius Caesar và đặc biệt là ở thời Hoàng đế Augustus, thành phố đã bị phá hủy nặng nề một phần trong trận Đại hỏa hoạn thành Roma năm 62 và sau đó đạt đến đỉnh cao phát triển kiến trúc đô thị vào khoảng năm 320.[12] Theo sau sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã đánh dấu khởi đầu của Đêm trường Trung Cổ, Roma dần rơi vào sự thống trị của chế độ giáo hoàng (đã xuất hiện tại thành phố kể từ thế kỷ 1) và chính thức thế kỷ 8 trở thành thủ đô của Vương quốc Giáo hoàng tồn tại cho đến năm 1870. Bắt đầu từ thời kỳ Phục Hưng, hầu như tất cả các giáo hoàng từ Nicôla V (1447–1455) trở đi đều chủ trương theo đuổi tiến trình mang tính kiến trúc và đô thị hóa liên tục suốt 400 năm nhằm mục đích biến thành phố trở thành trung tâm nghệ thuật và văn hóa của thế giới.[13] Do vậy, Roma trở thành trung tâm lớn của nền Phục Hưng Ý, đưa phong trào nghệ thuật này đạt đến đỉnh cao hoàng kim của nó, còn gọi là giai đoạn Thượng Phục Hưng, và sau đó trở thành nơi khai sinh của trường phái Baroquechủ nghĩa Tân cổ điển. Những vĩ nhân kiệt xuất như Michelangelo, Raffaello hay Bernini cùng các đại nghệ sĩ, họa sĩ, nhà điêu khắc và kiến trúc sư nổi tiếng đã biến Roma trở thành trung tâm hoạt động của họ, tạo ra những kiệt tác ngoạn mục khắp toàn thành phố, tiêu biểu nhất có thể kể đến như Đại vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Nhà nguyện Sistina, Dãy phòng Raffaello, Quảng trường đồi Capitolinus hay Đài phun nước Trevi.[14] Trong thế kỷ 19, Roma là biểu tượng của tinh thần thống nhất nước Ý và năm 1871 chính thức trở thành thủ đô của Vương quốc Ý mới sinh và sau đó là nền Cộng hòa Ý từ năm 1946 cho đến ngày nay.

Roma mang đẳng cấp của một thành phố toàn cầu,[15][16][17] và thường xuyên được xướng danh trong top những thành phố đẹp nhất thế giới.[18][19] Trong năm 2017, Roma xếp thứ 12 trong số những thành phố được viếng thăm nhiều nhất thế giới, đứng thứ 3 tại châu Âu và là điểm thu hút khách du lịch nổi tiếng nhất tại Ý.[20][21] Ở vai trò là ngai trụ xứ của Giáo hoàng cũng như thánh đô của Giáo hội Công giáo hoàn vũ, công cuộc hành hương đến Roma đã khiến cho thành phố trở thành địa điểm quan trọng bậc nhất đối với những người theo đạo Kitô trên khắp thế giới trong nhiều thế kỷ. Khu trung tâm lịch sử của Roma được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới.[22] Bảo tàng Vatican nổi tiếng nằm trong số những bảo tàng được viếng thăm nhiều nhất thế giới và Đấu trường La Mã trở thành điểm thu hút khách du lịch phổ biến nhất thế giới với 7,4 triệu lượt khách trong năm 2018.[23] Bên cạnh du lịch, nền kinh tế của thành phố cũng được định hướng theo hướng công nghệ mới, viễn thôngtruyền thông đa phương tiện kể từ những năm 2000 trở lại đây. Roma được xem là một trong những danh thắng khảo cổ học lớn nhất và quan trọng nhất trên thế giới, thành phố cũng sở hữu nhiều cây cầu lịch sử và đài phun nước, hơn 900 nhà thờ, cũng như số lượng đồ sộ các viện bảo tàng đẳng cấp và nhiều trường đại học và trung tâm học thuật danh tiếng. Thủ đô của Ý là nơi đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1960. Đây cũng là nơi thành lập nên Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) và Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu (EAEC), bên cạnh đó còn là trụ sở của các cơ quan chuyên môn thuộc Liên Hợp Quốc như Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO), Chương trình Lương thực Thế giới (WFP) và Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp (IFAD). Thành phố cũng là nơi đặt văn phòng Tổng thư ký Hội đồng Nghị viện Liên minh Địa Trung Hải[24] (UfM) cũng như trụ sở của nhiều tập đoàn kinh doanh quốc tế như Eni, Enel, TIM, Leonardo S.p.A., và các ngân hàng nhà nước và quốc tế như UniCreditBNL. Khu vực quận kinh tế và trung tâm thương mại của thành phố được gọi là EUR, là cơ sở của nhiều công ty quan trọng tham gia vào các ngành công nghiệp dầu mỏ, công nghiệp dược phẩm và dịch vụ tài chính. Roma cũng là một trung tâm thiết kế và thời trang quan trọng nhờ các thương hiệu quốc tế nổi tiếng có trụ sở tại thành phố, và đứng ở vị trí thứ 5 trong bảng xếp hạng các kinh đô thời trang của thế giới trong những năm gần đây.[25] Phim trường Cinecittà của Roma là phim trường lớn nhất tại châu Âu, đã trở thành nơi bấm máy của rất nhiều bộ phim đoạt giải Oscar.[26]

Tên gọi[sửa | sửa mã nguồn]

/Theo huyền sử sáng lập của người La Mã cổ đại,[27] cái tên Roma được tin là bắt nguồn từ tên của người sáng lập và vị vua đầu tiên của thành phố, Romulus.[28]

Dòng sông Tiber được người La Mã nhân cách hóa thành một vị thần, đồi Capitolinus tại Roma

Tuy nhiên, nhiều khả năng cái tên Romulus mới thực sự bắt nguồn từ Roma.[29] Ngay từ đầu thế kỷ thứ 4 CN, người ta đã có nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc của địa danh Roma. Một số giả thuyết dựa vào ngôn ngữ học, tuy nhiên vẫn chưa thực sự chắc chắn:[30]

  • Bắt nguồn từ Rumon hay Rumen, những tên thái cổ của con sông Tiber, động từ tiếng Hy Lạp ῥέω (rhèo) và động từ tiếng Latinh ruo, đều có nghĩa là "chảy";[b]
  • Bắt nguồn từ 𐌓𐌖𐌌𐌀 (ruma) trong tiếng Etrusca, với căn nguyên tố *rum- nghĩa là "núm vú", có lẽ ám chỉ con sói mẹ đã nuôi dưỡng cặp song sinh Romulus và Remus, hoặc hình dạng của hai quả đồi Palatinus và Aventinus;
  • Bắt nguồn từ ῤώμη (rhōmē) trong tiếng Hy Lạp, nghĩa là sức mạnh.[c]

Tên gọi "La Mã" là phiên âm Hán-Việt của hai chữ "羅馬/罗马", được người Trung Quốc dùng để ký âm cho tên "Roma" (bính âm: "Luómǎ"). Trong tiếng Việt, tên gọi này hiện chủ yếu được sử dụng trong các văn cảnh lịch sử có liên quan đến Đế quốc La Mã cũng như nền văn minh La Mã thời cổ đại.

Cái tên Roma có thể viết ngược lại thành Amor, nghĩa là tình yêu,[31] do đó Roma cũng được xem là "Thành phố của tình yêu". Tên Roma cũng là nguồn gốc của từ romanceromantic trong tiếng Anh (cũng như từ vựng tương đương trong các ngôn ngữ thuộc nhóm Roman),[32] bắt nguồn từ chữ romanice trong tiếng Latinh thông tục và tiếng Latinh Trung Cổ, có nghĩa là "theo kiểu những người Roma".[33] Hai chữ Hán "浪漫" (Hán Việt: lãng mạn) có nghĩa gốc là "sự buông thả, tùy thích", về sau được mượn dùng để phiên âm cho từ tiếng Anh này, tạo ra một nghĩa mới là "sự lãng mạn" theo cách hiểu hiện đại.

Bên cạnh "Thành phố vĩnh hằng", Roma rất nổi tiếng với tên gọi "Kinh đô thế giới" trong lịch sử, đầy đủ là "Roma kinh đô thế giới" (tiếng Latinh: Roma Caput Mundi),[34] bởi quyền lực của Đế quốc La Mã thời cổ đại, và về sau là trung tâm của Kitô giáo. Những biệt danh nổi tiếng khác của Roma bao gồm: "Thành phố Bảy ngọn đồi" (Urbs Septicollis) bắt nguồn từ vị trí địa lý nơi mà thành Roma cổ đại được hình thành,[35] "Ngai của các vị Thánh" (Limina Apostolorum) bởi vai trò của Thánh PhêrôThánh Phaolô trong buổi đầu của Giáo hội và Roma cũng là nơi mà họ tử đạo và được chôn cất.[36]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết lịch sử
Bộ tộc Latinh khoảng thiên niên kỷ thứ hai – 753 TCN

Tộc người Alba thế kỷ 10 – 753 TCN
(Thành lập thành phố) thế kỷ 9 TCN
Vương quốc La Mã khoảng 753–509 TCN
Đế quốc La Mã Cộng hoà La Mã 509–27 TCN
 Đế quốc La Mã 27 TCN–285
Đế quốc Tây La Mã 285–476
Vương quốc của Odoacer 476–493
Vương quốc Ostrogoth 493–553
Đế quốc Đông La Mã 553–754
Vương quốc Giáo hoàng 754–1870
Vương quốc Ý 1870–1946
Cộng hoà Ý 1946–nay

Thành Vatican 1929–nay
Thành phố sơ khởi được hình thành từ Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ) được xây dựng vào thế kỷ thứ 3, đồ sộ và kiên cố hơn.

Lịch sử sơ khởi[sửa | sửa mã nguồn]

Có những bằng chứng khảo cổ về việc loài người sống tại khu vực Roma từ khoảng 14.000 năm trước, song lớp đất dày đặc gồm các mảnh vụn có niên đại muộn hơn nhiều đã che lấp các di chỉ đồ đá cũ và đồ đá mới.[6] Bằng chứng về các công cụ bằng đá, đồ gốm và vũ khí bằng đá chứng thực con người hiện diện khoảng 10.000 năm. Một vài cuộc khai quật ủng hộ cho quan điểm rằng Roma phát triển từ các khu định cư chăn thả gia súc trên đồi Palatinus nằm bên trên khu vực Công trường La Mã sau này.

Từ cuối thời đại đồ đồng cho đến khi bắt đầu thời đại đồ sắt, mỗi ngọn đồi giữa biển và đồi Capitolinus có một ngôi làng ở trên đỉnh (tại đồi Capitolinus có một ngôi làng được chứng thực có từ cuối thế kỷ 14 TCN). Tuy nhiên, chúng đều chưa đạt tới hạng đô thị. Ngày nay, nhiều người thống nhất rằng thành phố đã dần phát triển thông qua việc tập hợp một vài làng xung quanh ngôi làng lớn nhất nằm trên đồi Palatinus. Quá trình tập hợp được thuận lợi nhờ gia tăng sức sản xuất nông nghiệp vượt trên mức tự cung tự cấp, đồng thời cho phép hình thành các hoạt động thuộc khu vực kinh tế thứ nhìthứ ba. Điều này lại kéo theo đẩy nhanh phát triển mậu dịch với các thuộc địa của người Hy Lạp tại miền nam Ý (chủ yếu là IschiaCumae). Những bước phát triển này theo chứng cứ khảo cổ học thì diễn ra vào giữa thế kỷ 8 TCN, có thể được xem là mốc "khai sinh" thành phố. Từ những cuộc khảo cổ gần đây trên đồi Palatinus, quan điểm cho rằng Roma được thành lập vào giữa thế kỷ 7 TCN, theo truyền thuyết về Romulus, chỉ được xem là một giả thuyết ngoài lề.[37][38]

Trung tâm Thành phố Roma
  Ga tàu điện ngầm, sử dụng toàn màn hình để hiển thị Termini
  Điểm ưa thích

Truyền thuyết sự thành lập Roma[sửa | sửa mã nguồn]

Tranh Romulus và Remus của Peter Paul Rubens tại Bảo tàng Capitonlinus.
Tranh Aeneas trốn khỏi thành Troia của Federico Barocci, Phòng tranh Borghese.

Các câu chuyện truyền thống do người La Mã cổ đại truyền đời cho nhau giải thích lịch sử sơ khởi của thành phố bằng truyền thuyết và thần thoại. Thần thoại quen thuộc nhất trong số đó và có lẽ cũng là nổi tiếng nhất trong tất cả thần thoại La Mã, đó là câu chuyện về Romulus và Remus, hai anh em sinh đôi được một con sói cho bú.[27] Họ quyết định xây dựng một thành phố, song sau một lần tranh luận, Romulus giết người em song sinh và đặt thành phố theo tên mình. Theo những người chép sử La Mã, sự kiện này diễn ra vào 21 tháng 4 năm 753 TCN.[39]

Truyền thuyết này hoà hợp với một truyền thuyết song hành được tạo ra từ trước đó, rằng có một người tị nạn thành Troia tên là Aeneas đào thoát sang Ý và lập ra dòng dõi La Mã thông qua con trai ông là Iulus, trùng tên với triều đại Julius-Claudius.[40] Điều này đã được nhà thơ La Mã Vergilius viết lại vào thế kỷ thứ nhất TCN. Ngoài ra, Strabo đề cập rằng còn có một câu chuyện cũ hơn rằng thành phố là thuộc địa của Arcadia và được thành lập bởi Euandros. Strabo cũng ghi lại Lucius Coelius Antipater tin rằng Roma được thành lập bởi người Hy Lạp.[41][42] Dionysius xứ Halicarnassus viết rằng những người đến vùng đất mà sau này là thành Roma là những người thổ dân đầu tiên đến từ Arcadia, họ đã đuổi những người Sicilia ra khỏi nơi đó, và tiếp đến là người Pelasgos đến từ Thessalía, thứ ba là những người đến Ý cùng Euandros từ thành Pallantium ở Arcadia, sau họ là những người Epeius từ Elis và người Pheneus, một phần của quân đội do Heracles chỉ huy đã quyết định ở lại đó trong khi đang trở về từ đoàn thám hiểm ở Erytheia, nơi quân thành Troia giao chiến và còn sót lại cuối cùng, những binh lính Troia sau đó đã trốn thoát cùng Aeneas từ Ilium, Dardanus và các thành phố thuộc Troia khác. Dionysius đề cập rằng quân Troia, cũng là người Hy Lạp có nguồn gốc từ Peloponnesos.[43] Ông cũng nói thêm rằng ngay cả người La Mã cũng khẳng định thành cổ Pallantium của người La Mã được thành lập bởi người Hy Lạp đến từ Pallantium của Arcadia, khoảng sáu mươi năm trước cuộc chiến thành Troia và người dẫn đầu là Euandros.[44] Sau đó vào thế hệ thứ mười sáu sau cuộc chiến thành Troia, người Alba đã hợp nhất tất cả những nơi này thành một khu định cư, bao quanh họ bằng một bức tường và một con mương. Người Alba là một quốc gia hỗn hợp gồm tất cả những người trên. Dionysius cũng cho biết thêm có thể là quân man rợ trong số những người hàng xóm hoặc tàn dư những cư dân cổ xưa của nơi này được trộn lẫn với người Hy Lạp. Nhưng tất cả những người này đã mất bản sắc dân tộc, được gọi bằng một tên chung, Latin, đặt tên theo Latinus, là vua của đất nước. Lãnh đạo vùng thuộc địa là hai anh em song sinh Romulus và Remus.[45]

Thời quân chủ, cộng hoà và đế quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi được Romulus thành lập theo truyền thuyết, thành phố nằm dưới quyền cai trị của một hệ thống quân chủ trong 244 năm, ban đầu là với các quân chủ gốc LatinhSabine và sau đó là các quốc vương người Etrusca. Theo truyền thuyết, vương vị truyền qua bảy người: Romulus, Numa Pompilius, Tullus Hostilius, Ancus Marcius, Tarquinius Priscus, Servius TulliusTarquinius Superbus.[39]

Năm 509 TCN, người La Mã trục xuất vị quốc vương cuối cùng khỏi thành phố và lập ra một nền cộng hoà tập trung. La Mã sau đó bắt đầu một giai đoạn có đặc điểm là đấu tranh nội bộ giữa quý tộcbình dân, và chiến tranh liên miên chống lại các cộng đồng tại miền trung Ý: Etrusca, Latinh, Volsci, Aequi, Marsi.[46] Sau khi trở thành chủ nhân của khu vực Latium, La Mã dẫn đầu một số cuộc chiến tranh với kết quả là chinh phục bán đảo Ý từ khu vực miền trung đến Magna Graecia.[47]

Trong thế kỷ 3 và 2 TCN, La Mã thiết lập quyền bá chủ trên Địa Trung Hải và bờ Đông, thông qua ba cuộc chiến tranh Punic (264–146 TCN) chống lại thành Carthago và ba cuộc chiến tranh chiến tranh Macedonia (212–168 TCN) chống lại Macedonia.[48] Sau đó thành lập nên những tỉnh thuộc La Mã đầu tiên: Sicilia, SardiniaCorsica, Hispania, Macedonia, Achaea và Châu Phi.[49]

Cái chết của Caesar của Vincenzo Camuccini, Phòng tranh quốc gia về Nghệ thuật hiện đại và đương đại, Roma.

Từ khi bắt đầu thế kỷ 2 TCN, quyền lực là mục tiêu tranh chấp giữa hai nhóm thống trị: phái quý tộc đại diện cho bộ phận bảo thủ trong Viện nguyên lão, và phái bình dân dựa vào sự ủng hộ của tầng lớp thường dân. Trong cùng giai đoạn, việc tiểu nông bị phá sản và sự thành lập các điền trang nô lệ lớn đã khuyến khích một lượng lớn dân chúng di cư đến thành phố. Chiến tranh liên miên tạo tính cần thiết cho một đội quân chuyên nghiệp, họ trung thành với tướng lĩnh của mình hơn là với nền cộng hoà. Do đó, vào nửa cuối của thế kỷ 2 và thế kỷ 1 TCN diễn ra xung đột cả ở bên ngoài lẫn bên trong. Sau nỗ lực thất bại nhằm cải cách xã hội của TiberiusGaius Gracchus thuộc phái bình dân, và chiến tranh chống lại Jugurtha, phát sinh cuộc nội chiến đầu tiên giữa Gaius MariusSulla.[50] Theo sau là một cuộc khởi nghĩa nô lệ quy mô lớn dưới quyền Spartacus, và sau đó là thành lập Liên minh tam hùng thứ nhất với Caesar, PompeyCrassus.[51]

Đế quốc La Mã bành trướng cực đại dưới thời của Hoàng đế Traianus đã kiểm soát khoảng 6,5 triệu km²[52] bề mặt đất liền.

Cuộc chinh phục Gallia khiến Caesar trở nên vô cùng mạnh mẽ và được lòng dân, dẫn tới cuộc nội chiến thứ nhì chống lại Viện nguyên lão và Pompey. Sau khi giành thắng lợi, Caesar tự lập bản thân làm độc tài trọn đời. Việc ông bị ám sát dẫn đến Liên minh tam hùng thứ hai gồm Octavius (cháu họ và người thừa kế của Caesar), Marcus AntoniusLepidus, và một cuộc nội chiến khác giữa Octavius và Antonius. Octavius đến năm 27 TCN trở thành princeps civitatis và lấy hiệu là Augustus, lập ra chính thể nguyên thủ, một nền chính trị lưỡng đầu giữa nguyên thủ và viện nguyên lão.[53] La Mã trở thành một đế quốc trên thực tế, đạt đến mức độ bành trướng tối đa vào thế kỷ 2 dưới quyền hoàng đế Traianus. Thành Roma là 'Caput Mundi', tức kinh đô của thế giới, một khái niệm đã có từ thời cộng hòa. Trong hai thế kỷ đầu tiên, đế quốc có quân chủ thuộc nhà Julius-Claudius, nhà Flavius (triều đại cho xây dựng khán đài hình vòng khổng lồ, được biết với tên gọi Colosseum hay Đấu trường La Mã)[54] và nhà Antoninus. Thời kỳ này còn có đặc điểm là sự truyền bá Kitô giáo, do Giêsu thuyết giảng tại Judea vào nửa đầu thế kỷ 1 (thời Tiberius) và được các tông đồ của ông truyền bá khắp đế quốc và bên ngoài.[55] Thời kỳ triều đại nhà Antoninus được xem là thời cực thịnh của đế quốc, với lãnh thổ trải dài từ Đại Tây Dương đến Euphrates và từ Anh đến Ai Cập.[56]

1. Cung điện Hoàng đế La Mã cổ đại là một dãy các cung điện trên đồi Palatinus thể hiện quyền lực và sự giàu có của các hoàng đế từ Augustus cho đến thế kỷ 4.
2. Công trường Hoàng đế nằm trong chuỗi monumental fora (quảng trường công cộng) được xây dựng tại Roma bởi các vị hoàng đế. Trong bức ảnh cũng có thể thấy được chợ Traianus.

Sau khi kết thúc triều đại Severus vào năm 235, đế quốc La Mã bước vào một giai đoạn 50 năm mang tên Khủng hoảng thế kỷ thứ ba, khi đó diễn ra nhiều cuộc nổi dậy của các tướng lĩnh muốn chiếm giữ những khu vực mà họ đã được giao phó do sự yếu kém của chính quyền trung ương tại Roma. Tồn tại đế chế Gallia tự xưng từ 260-274 và các cuộc nổi dậy của Zenobia và cha của bà từ giữa những năm 260, người đang tìm cách chống đỡ các cuộc xâm lược của Ba Tư. Một số khu vực như Anh, Tây Ban Nha và Bắc Phi hầu như rất khó gây ảnh hưởng đến. Bất ổn gây ra suy thoái kinh tế, lạm phát tăng nhanh chóng do chính quyền hạ mức giá trị tiền tệ nhằm đáp ứng chi tiêu. Các bộ lạc German dọc sông Rhine và phía bắc Balkan tiến hành các cuộc xâm nhập từ thập niên 250-280. Đế quốc Ba Tư xâm chiếm vài lần trong thập niên 230 đến 260, song cuối cùng bị đánh bại.[57] Vào năm 284, hoàng đế Diocletianus đảm nhận việc khôi phục đế quốc. Ông đặt dấu chấm hết cho cái gọi là princeps (nguyên thủ) và giới thiệu danh hiệu mới là dominate (chúa tể) để tạo ấn tượng về quyền uy tối thượng.[58] Đặc điểm nổi bật nhất là sự can thiệp chưa từng có của quốc gia xuống cấp thành phố: trong khi quốc gia trước đây thường đệ trình yêu cầu thuế đối với một thành phố và cho phép nó phân bổ các khoản phí, thì kể từ triều đại của Diocletianus, quốc gia đã thực hiện điều này xuống tận cấp thôn làng.[59][60][61]

Diocletianus và Maximianus

Trong một nỗ lực vô ích nhằm kiểm soát lạm phát, ông đã áp đặt các biện pháp kiểm soát giá nhưng chúng không thể kéo dài được lâu.[62][63] Ông hoặc Constantinus đã địa phương hóa hệ thống hành chính của đế quốc, điều này đã làm thay đổi căn bản cách điều hành quốc gia bằng cách tạo ra các giáo phận khu vực. Sự tồn tại của các đơn vị tài chính khu vực từ năm 286 đóng vai trò như một mô hình cho sự đổi mới chưa từng có này.[64] Do đó, chính quyền dân sự và chỉ huy quân sự sẽ được tách biệt. Diocletianus giao cho các tổng đốc nhiều nhiệm vụ tài khóa hơn và đặt họ vào phụ trách hệ thống hỗ trợ hậu cần của quân đội với nỗ lực kiểm soát nó bằng cách loại bỏ hệ thống hỗ trợ khỏi sự kiểm soát của nó.[65] Diocletianus đã tạo ra một hệ thống "Tứ đầu chế" (Tetrarchia) trong đó mỗi hoàng đế cai quản một góc phần tư lãnh thổ của đế quốc, ông là Augustus cai quản nửa phía đông và cư ngụ tại Nicomedia. Năm 286, ông đưa Maximianus lên thành Augustus phía tây cai quản phần lớn lãnh thổ Mediolanum (Milano ngày nay) mà ông đã cai trị trước đó. Tiếp theo, ông đặt ra hai hoàng đế 'cấp dưới' hay nhị Caesar, một cho mỗi Augustus, trong đó Constantius Chlorus dưới quyền Maximianus sẽ cai trị Britania (Anh), Gallia (Pháp) và Hispania (Tây Ban Nha) có đầu não quyền lực tại Augusta Treverorum (Trier ngày nay), và Caesar phía Đông Galerius cai quản vùng Balkan-Danube trụ xứ tại thành Srimium, những thành phố này được gọi là thủ đô tứ đầu chế.[66] Mặc dù Roma đã bị lãng quên và không còn là thủ đô hoạt động, nhưng thành phố vẫn tiếp tục là thủ đô danh nghĩa của toàn bộ Đế quốc La Mã, không bị hạ cấp xuống thành Tỉnh (Provincia) mà vẫn giữ nguyên vị thế hành chính độc nhất của mình là "Thành phủ" (tiếng Latinh: Praefectus urbanus).[67] Việc bổ nhiệm một Caesar không phải là không xác định: Diocletianus đã cố gắng chuyển thành một hệ thống kế vị phi triều đại. Sau khi thoái vị vào năm 305, các Caesar đã tiếp nối và họ lần lượt bổ nhiệm hai đồng nghiệp cho chính mình.[57]

Constantinus Đại đế là hoàng đế La Mã đầu tiên cải đạo sang Kitô giáo.

Sau sự thoái vị của Diocletianus và Maximianus vào năm 305 và một loạt các cuộc nội chiến giữa những người tranh giành quyền lực đế quốc với đối thủ của mình, cho đến khoảng năm 313, chế độ tứ đầu chế đã sụp đổ.[68] Constantinus Đại đế đã tiến hành một cuộc cải cách lớn về bộ máy quan liêu, không phải bằng cách thay đổi cấu trúc mà bằng cách hợp lý hóa năng lực của một số cơ quan trong những năm 325-330, sau khi ông đánh bại Licinius, hoàng đế ở phía Đông, vào cuối năm 324.[69][70][71] Sắc lệnh Milano năm 313 thực ra là một mảnh thư từ Licinius gửi cho các tổng đốc của các tỉnh phía đông, trao quyền tự do thờ phượng cho mọi người, kể cả cho các Kitô hữu, và ra lệnh khôi phục lại các tài sản của nhà thờ bị tịch thu theo đơn thỉnh cầu của các giáo phận mới được lập ra. Constantinus đã tài trợ cho việc xây dựng một số nhà thờ và cho phép các giáo sĩ đóng vai trò trọng tài trong vụ kiện dân sự (một biện pháp không tồn tại lâu hơn ông nhưng đã được khôi phục một phần sau đó).[72][73] Ông đã biến trấn Byzantium thành nơi ở mới của mình, tuy nhiên nó không chính thức là nơi cư ngụ hoàng gia như Milan hay Trier hay Nicomedia cho đến khi nó được Constantius II trao tặng một cái tên mới vào tháng 5 năm 359: Constantinopolis – "Thành phủ" thứ hai và ngang vị thế hành chính với Roma.[74] Việc tạo ra thành Constantinopolis có ảnh hưởng rất quan trọng đến châu Âu: đó là tuyến phòng thủ chiến lược chống lại sự xâm lăng và chinh phạt từ phương Đông trong khoảng một thiên niên kỷ.[75]

Cướp phá thành Roma năm 410.

Kitô giáo dưới dạng Tín điều Nicea trở thành tôn giáo chính thức của đế quốc vào năm 380, được gọi là Sắc lệnh Thessalonica thông qua nhân danh ba vị hoàng đế Gratianus, Valentinianus II, và Theodosius I, người thực sự thúc đẩy đằng sau sắc lệnh. Ông là hoàng đế cuối cùng của La Mã thống nhất: sau khi ông mất vào năm 395, hai con trai của ông là ArcadiusHonorius phân chia đến quốc thành hai phần phía tâyphía đông. Trụ sở của chính phủ Đế quốc Tây La Mã được chuyển đến Ravenna sau cuộc vây hãm Milano vào năm 402. Trong thế kỷ 5, các hoàng đế trong thập niên 430 hầu hết cư trú tại Roma.[76]

Roma bị mất vị thế trung tâm trong việc cai quản đế quốc, và bị người Visigoth dưới quyền Alaric I cướp phá vào năm 410,[77] song chịu rất ít tổn thất về vật chất, và hầu hết đã được tu sửa. Các giáo hoàng tô điểm cho thành phố bằng các vương cung thánh đường cỡ lớn, như Vương cung thánh đường Đức Bà Cả (cộng tác với các hoàng đế). Dân số thành Roma giảm từ 800.000 xuống 450-500.000 khi thành phố bị người Vandal dưới quyền Genseric cướp phá vào năm 455.[78] Các hoàng đế yếu đuối trong thế kỷ 5 không thể ngăn nổi sự suy tàn, và Đế quốc Tây La Mã chấm dứt vào ngày 22 tháng 8 năm 476 khi Romulus Augustus bị phế truất, đối với nhiều sử gia đây là mốc khởi đầu Trung cổ.[76]

Sự suy giảm dân số của thành phố đến từ việc mất mát các lô hàng ngũ cốc từ Bắc Phi từ năm 440 trở đi, và sự không sẵn lòng của tầng lớp nguyên lão trong việc duy trì quyên góp để hỗ trợ cho một dân số quá cỡ so với các nguồn lực sẵn có.[79] Mặc dù vậy, những nỗ lực cố gắng đã được thực hiện để duy trì các công trình trung tâm, mái vòm và phòng tắm lớn nhất tiếp tục hoạt động cho đến khi cuộc vây hãm Roma của người Gothic vào năm 537. Các nhà tắm lớn của Constantinus trên đồi Quirinalis thậm chí đã được sửa chữa vào năm 443 nhưng mức độ thiệt hại vẫn tiếp tục nhân rộng.[80]

1. Mô hình mô phỏng thành Roma cổ đại tại Bảo tàng Văn minh La Mã ở Roma
2. Công trường La Mã là những tàn tích còn sót lại của những kiến trúc mà trong thời La Mã cổ đại đại diện cho trung tâm chính trị, luật pháp, tôn giáo và kinh tế của thành phố và trung tâm đầu não của toàn bộ văn minh La Mã[81]

Roma thể hiện tổng thể của sự tồi tệ và suy tàn vì các khu vực bị bỏ hoang lớn do sự suy giảm dân số. Dân số giảm xuống 500.000 vào năm 452 và 100.000 vào năm 500 (có lẽ lớn hơn, mặc dù không có con số nào cụ thể được biết). Sau cuộc vây hãm của người Gothic năm 537, dân số giảm xuống còn 30.000, nhưng đã tăng lên 90.000 vào thời Giáo hoàng Grêgôriô Cả.[82] Sự suy giảm dân số xảy ra đồng thời với sự sụp đổ chung của văn minh đô thị ở phương Tây trong thế kỷ 5 và 6, với một vài ngoại lệ. Phân phối ngũ cốc từ trợ cấp quốc gia trợ cấp cho những người dân nghèo hơn trong xã hội vẫn tiếp tục trong suốt thế kỷ thứ 6 và có lẽ đã khiến dân số không thể giảm thêm nữa.[83] Con số 450.000-500.000 được tính dựa trên số lượng 3.629.000 libra thịt lợn (đơn vị khối lượng La Mã xưa), phân phát cho người dân nghèo Roma trong năm tháng mùa đông với tỷ lệ 5 libra mỗi người mỗi tháng, đủ cho 145.000 người hoặc 1/4 hoặc 1/3 tổng dân số.[84] Ngũ cốc phân phối cho cho 80.000 người có phiếu cùng lúc đã gợi ý 400.000 người (Augustus đặt con số là 200.000 hoặc một phần năm dân số).[85]

Trung Cổ[sửa | sửa mã nguồn]

Sự sụp đổ của một Đế chế, tranh của Cole Thomas tại Bảo tàng Lịch sử New York.

Giám mục Roma được gọi là Giáo hoàng, và Roma là nơi quan trọng từ thời kỳ đầu của Kitô giáo do hai tông đồ PhêrôPhaolô tử đạo tại đây. Các giám mục thành Roma cũng được nhìn nhận là những người kế thừa của Phêrô, người được xem là Giáo hoàng đầu tiên. Thành phố do đó nâng tầm quan trọng với vị thế là trung tâm của Kitô giáo. Sau khi Đế quốc Tây La Mã sụp đổ vào năm 476, Roma ban đầu nằm dưới quyền kiểm soát của Odoacer và sau đó là bộ phận của Vương quốc Ostrogoth trước khi qua tay Đông La Mã sau Chiến tranh Gothic song cuộc chiến này đã tàn phá thành phố. Dân số Roma suy giảm từ hơn một triệu vào năm 210 xuống 500.000 vào năm 273[86] và còn 35.000 sau Chiến tranh Gothic,[87] làm giảm quy mô thành phố còn một nhóm các toà nhà có người ở nằm rải rác trên một khu vực lớn các tàn tích, thảm thực vật, trang viên nho và vườn chợ.[88] Dân số của thành phố được tin rằng đến năm 300 là 1 triệu (ước tính dao động từ 2 triệu đến 750.000) giảm xuống 750-800.000 vào năm 400, 450-500.000 vào năm 450 và giảm xuống còn 80-100.000 vào năm 500 (mặc dù có thể gấp hai lần con số này).[89]

Sau khi người Lombard xâm chiếm Ý, thành phố vẫn thuộc Đông La Mã trên danh nghĩa, song trong thực tế các giáo hoàng theo đuổi chính sách cân bằng giữa Đông La Mã, người Frank và người Lombard. Năm 729, quốc vương của người Lombard là Liutprand tặng cho giáo hội thị trấn Sutri phía bắc Latium, khởi đầu quyền lực lâm thời của giáo hội. Năm 756, sau khi đánh bại người Lombard, Pépin Lùn giao cho Giáo hoàng quyền hạn tạm thời đối với Công quốc Roma và Khu trấn thủ giáo Ravenna, qua đó lập nên Vương quốc Giáo hoàng. Kể từ đây, ba thế lực cố gắng cai trị thành phố: Giáo hoàng; giới quý tộc và các thủ lĩnh dân quân cùng thẩm phán, Viện nguyên lão và dân chúng; quốc vương của người Frank, cũng như quốc vương của người Lombard, patricius và Hoàng đế. Ba phái này (thần quyền, cộng hoà và đế quốc) là một đặc trưng trong sinh hoạt Roma suốt thời Trung Cổ. Vào đêm Giáng sinh năm 800, Giáo hoàng Lêô III trao vương miện cho Charlemagne tại Roma với tư cách hoàng đế của Đế quốc La Mã Thần thánh.[90]

Tranh của Raffaello phác hoạ cảnh đăng cơ của Charlemagne tại Roma vào ngày 25 tháng 12 năm 800

Năm 846, người Ả Rập Hồi giáo tấn công bất thành vào tường thành Roma, song cướp phá các vương cung thánh đường Thánh PhêrôPhaolô nằm ngoài tường thành.[91] Sau khi quyền lực của vương triều Caroling sụp đổ, Roma lâm vào tình trạng vô chính phủ phong kiến, một số gia đình quý tộc không ngừng tranh đấu chống lại Giáo hoàng, hoàng đế và chống đối lẫn nhau. Trong thời gian này, Theodora và con gái bà là Marozia trở thành thiếp và mẹ của một số giáo hoàng, và của lãnh chúa phong kiến quyền lực Crescentius, là người đấu tranh chống các hoàng đế Otto IIOtto III. Các bê bối trong giai đoạn này thúc đẩy chế độ giáo hoàng tự cải cách: Bầu cử giáo hoàng được dành cho các hồng y, và một cuộc cải cách tăng lữ được nỗ lực tiến hành. Động lực đằng sau việc này là tu sĩ Ildebrando da Soana, ông từng được bầu làm giáo hoàng và tham gia tranh luận về bổ nhiệm giáo sĩ chống Hoàng đế Heinrich IV. Sau đó, Roma bị người Norman dưới quyền Robert Guiscard cướp bóc và đốt cháy vào năm 1084, họ tiến vào thành phố để hỗ trợ Giáo hoàng đang bị vây hãm trong Lâu đài Thiên Thần.[92]

Bên trong của Vương cung thánh đường Đức Bà Trastevere, một trong những nhà thờ đẹp nhất được xây dựng từ thời Trung Cổ.

Trong giai đoạn này, thành phố được tự trị dưới quyền của một senatore (nguyên lão) hoặc patrizio (quý tộc) trong thế kỷ 12. Chính quyền này thường thấy trong các thành phố Ý, tiến hoá thành công xã Trung Cổ, là một hình thức tổ chức xã hội mới, sự thể hiện của các tầng lớp giàu có mới. Giáo hoàng Giáo hoàng Luciô II đã chiến đấu chống công xã Roma, và cuộc đấu tranh tiếp tục dưới quyền Giáo hoàng Êugêniô III: công xã liên minh với giới quý tộc được sự ủng hộ từ Arnaldo da Brescia, một tu sĩ và nhà cải cách tôn giáo và xã hội. Sau khi Giáo hoàng từ trần, Arnaldo bị Giáo hoàng Ađrianô IV tống giam, đánh dấu kết thúc quyền tự trị của công xã. Thời kỳ dưới quyền Giáo hoàng Innôcentê III là đỉnh cao của chế độ giáo hoàng, công xã đã thanh lý được viện nguyên lão, thay thế nó bằng một Senatore lệ thuộc Giáo hoàng.[93]

Trong thời kỳ này, giáo hoàng đóng vai trò thế tục quan trọng ở Tây Âu, thường đứng ra làm trọng tài giữa các quốc vương Kitô giáo và thực thi các quyền lực chính trị bổ sung.[94][95][96]

Giáo hoàng Bônifaciô VIII tuyên bố Năm Thánh đầu tiên vào năm 1300.

Năm 1266, Charles I của Anjou được bổ nhiệm làm nghị sĩ khi đang tiến về phương nam để giao tranh với nhà Staufer nhân danh Giáo hoàng. Trong giai đoạn này, giáo hoàng từ trần, và các hồng y tụ họp tại Viterbo không thể nhất trí về người kế vị, thị dân tức giận và đã dỡ mái toà nhà nơi tụ họp, giam cầm các hồng y cho đến khi họ chọn ra giáo hoàng mới, sự kiện này đánh dấu khởi đầu mật nghị Hồng y. Trong giai đoạn này, thành phố cũng bị tàn phá trước các cuộc giao tranh liên tiếp giữa các gia đình quý tộc: Annibaldi, Caetani, Colonna, Orsini, Conti, họ có công sự xây trên các đại công trình La Mã cổ đại, tranh đoạt nhau để kiểm soát chế độ giáo hoàng.[93]

Giáo hoàng Bônifaciô VIII là giáo hoàng cuối cùng đấu tranh cho lãnh địa tổng thể của giáo hội, ông tuyên bố một cuộc thập tự chinh chống lại Colonna, và đến năm 1300 ông kêu gọi Năm Thánh đầu tiên, khiến hàng triệu người hành hương đến Roma. Tuy nhiên, hy vọng của ông bị tiêu tan dưới tay Quốc vương Pháp Philippe IV và khiến ông mất mạng. Sau đó, một giáo hoàng mới trung thành với người Pháp được bầu ra, và chế độ giáo hoàng được di dời trong một giai đoạn ngắn đến Avignon (1309–1377). Trong giai đoạn này, thành phố bị bỏ bê, cho đến khi quyền lực vào tay một nhân vật bình dân là Cola di Rienzo. Một người theo chủ nghĩa lý tưởng và là ngưỡng mộ của La Mã cổ đại, Cola đã mơ về sự tái sinh của Đế quốc La Mã. Sau khi nắm quyền với tư cách Tribuno (quan bảo dân), các cải cách của ông bị dân chúng bác bỏ. Cola buộc phải chạy trốn, và trở lại trong đoàn tuỳ tùng của hồng y Albornoz, chịu trách nhiệm khôi phục quyền lực của giáo hội tại Ý. Sau khi trở lại nắm quyền trong một thời gian ngắn, ông bị dân chúng hành hình, và Albornoz đã có thể nắm quyền sở hữu thành phố, rồi đến năm 1377 dưới thời Grêgôriô XI, Roma lại trở thành đầu não của chế độ giáo hoàng. Việc chế độ giáo hoàng trở lại Roma trong năm đó đã mở đường cho Ly giáo Tây phương (1377–1418), và trong bốn mươi năm tiếp theo, thành phố là nạn nhân của các cuộc đấu tranh làm tan vỡ giáo hội.[97]

Phục Hưng và cận đại[sửa | sửa mã nguồn]

Bích họa "Trường học Athen" nổi tiếng nằm trong Dãy phòng của Raffello tại Vatican (hình bên phải).

Năm 1418, Công đồng Constance giải quyết Ly giáo Tây phương, và bầu ra một giáo hoàng người Roma là Máctinô V. Sự kiện này giúp Roma có một thế kỷ hoà bình nội bộ, đánh dấu khởi đầu nền Phục Hưng. Các giáo hoàng cai trị cho đến nửa đầu thế kỷ 16, trong đó Nicôla V lập ra Thư viện Vatican, Piô II là người theo chủ nghĩa nhân văn và có học thức, Xíttô IV là một giáo hoàng chiến binh, Alexanđê VI là người vô đạo đức và gia đình trị, từ Giuliô II là một người bảo trợ cho đến Lêô X có hiệu được đặt cho giai đoạn này ("thế kỷ Lêô X"), toàn bộ đều cống hiến sức lực của mình cho sự vĩ đại và vẻ đẹp của Thành phố vĩnh hằng, cho quyền lực dòng dõi của họ, và bảo trợ cho nghệ thuật. Trong những năm này, trung tâm của Phục Hưng Ý chuyển từ Firenze đến Roma. Các công trình uy nghi như Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Nhà nguyện SistinaCầu Sisto được xây dựng. Để hoàn thành chúng, các giáo hoàng đã thu hút các nghệ sĩ giỏi nhất đương thời, như Michelangelo, Perugino, Raffaello, Ghirlandaio, Luca Signorelli, BotticelliCosimo Rosselli.[97]

Bích họa Sự tạo dựng Adam của Michelangelo trên trần của nhà nguyện Sistina, Vatican.

Thời kỳ này cũng khét tiếng vì sự mục nát của chế độ giáo hoàng, với nhiều giáo hoàng nuôi con cái, và tham gia vào gia đình trị và mua quyền bán chức. Sự trụy lạc của các giáo hoàng và các chi phí khổng lồ cho các dự án xây dựng của họ, một phần, dẫn đến cuộc Cải cách Kháng nghị và đến lượt là Phong trào Phản Cải cách. Chẳng hạn, Alexanđê VI nổi tiếng với sự bại hoại, ngông cuồng và cuộc sống vô đạo đức.[98] Dưới quyền những vị giáo hoàng phung phí và giàu có, Roma chuyển mình thành một trung tâm mỹ thuật, thi ca, âm nhạc, văn học, giáo dục và văn hoá. Roma trở thành nơi cạnh tranh với các thành phố lớn khác tại châu Âu đương thời về mức độ thịnh vượng, huy hoàng, nghệ thuật, tri thức và kiến trúc. Thời kỳ Phục Hưng đã thay đổi diện mạo của Roma một cách đáng kể, với các tác phẩm như Pietà của Michelangelo và các bức bích họa của phòng tranh Borgia. Roma đạt đến đỉnh cao của sự huy hoàng dưới thời Giáo hoàng Giuliô II (1503–1513) và những người kế vị như Lêô X và Clêmentê VII, cả hai đều là thành viên của Nhà Medici.[99][100]

Điêu khắc Pietà hay Đức Mẹ sầu bi của Michelangelo, Vatican.

Trong giai đoạn hai mươi năm này, Roma trở thành một trong những trung tâm nghệ thuật vĩ đại nhất thế giới. Vương cung thánh đường Thánh Phêrô cũ được xây dựng bởi Constantinus Đại đế[101] (bấy giờ đang trong tình trạng đổ nát) đã bị phá hủy và một nhà thờ mới bắt đầu hình thành. Thành phố đã chào đón các nghệ sĩ như Ghirlandaio, Perugino, BotticelliBramante, những người đã xây dựng ngôi đền Thánh Phêrô tại Montorio và lên kế hoạch lớn cho dự án cải tạo Vatican.[102] Raffaello ngụ tại Roma đã trở thành một trong những họa sĩ nổi tiếng nhất của Ý, đã tạo ra những bức bích họa trong Dinh Farnesina, Dãy phòng của Raffaello, cùng với nhiều bức tranh nổi tiếng khác. Michelangelo bắt đầu trang trí trần nhà của Nhà nguyện Sistina và tạo ra bức tượng Moses nổi tiếng dành cho lăng mộ Giuliô II. Roma mất đi một phần đặc trưng tôn giáo của mình, ngày càng trở thành một thành phố Phục Hưng thực sự, với một số lượng lớn các yến tiệc thết đãi phổ biến, những cuộc đua ngựa, các lễ hội rình rang, những mưu đồ và nhiều tình tiết kịch tính cam go.[103][104]

Cướp phá Roma năm 1527.

Kinh tế Roma giàu mạnh, với sự hiện diện của một số chủ ngân hàng người Toscana như Agostino Chigi, ông là một người bạn của Raffaello và là một người bảo trợ cho nghệ thuật. Trước khi mất sớm, Raffaello cũng đề xướng lần đầu tiên việc bảo tồn các di tích cổ đại.[105] Mâu thuẫn giao tranh giữa Pháp với Tây Ban Nha tại châu Âu và chính sách đối ngoại của Clêmentê VII đã khiến cho Roma bị cướp phá lần đầu tiên trong gần 500 năm trở lại đây, năm 1527, quân đánh thuê Landsknecht của vua Tây Ban Nha là Karl V đã cướp phá thành phố, chấm dứt đột ngột thời đại hoàng kim của Phục Hưng tại Roma và thường được xem là sự kết thúc của nền Phục Hưng Ý. Sự kiện này tác động rất lớn đến lịch sử của châu Âu, Ý và Công giáo, tạo ra hiệu ứng gợn sóng lâu dài trên khắp văn hóa và chính trị thế giới.[106][107][108][109][110]

Từ Công đồng Trentô vào năm 1545, Giáo hội Công giáo bắt đầu chống lại Cải cách Kháng nghị - phong trào nghi vấn quy mô lớn về thẩm quyền của Giáo hội trên các vấn đề tinh thần và sự vụ chính quyền. Việc mất lòng tin này sau đó dẫn đến những chuyển biến lớn về quyền lực rời xa khỏi Giáo hội. Dưới quyền các giáo hoàng từ Piô IV đến Xíttô V, Roma trở thành trung tâm của Công giáo cải cách và chứng kiến xây dựng các công trình kỷ niệm mới nhằm tán dương chế độ giáo hoàng khôi phục tính trọng đại. Các giáo hoàng và hồng y trong thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18 tiếp tục phong trào bằng việc tô điểm cho cảnh quan thành phố các toà nhà kiến trúc baroque.[111]

Lễ hội Carnaval năm 1656 tại Điện Barberini, vinh danh Kristina, Nữ hoàng Thụy Điển.

Diễn ra một giai đoạn gia đình trị khác, các gia đình quý tộc mới (Barberini, Pamphili, Chigi, Rospigliosi, Altieri, Odescalchi) được bảo hộ từ các giáo hoàng xuất thân từ gia đình của họ, các giáo hoàng xây cho người thân của mình các toà nhà baroque đồ sộ. Trong Thời kỳ Khai sáng, các tư tưởng mới cũng lan đến Roma, tại đây chế độ giáo hoàng ủng hộ các nghiên cữu khảo cổ và cải thiện phúc lợi của dân chúng. Nhưng không phải mọi thứ đều suôn sẻ cho Giáo hội trong thời kỳ Phản Kháng Cách. Đã có nhiều thất bại trong nỗ lực kiềm chế các chính sách chống Giáo hội của các cường quốc châu Âu thời bấy giờ, thất bại đáng chú ý nhất có lẽ là vào năm 1773 khi Giáo hoàng Clêmentê XIV bị các thế lực thế tục buộc phải đàn áp Dòng Tên.[97][111]

Hiện đại và đương đại[sửa | sửa mã nguồn]

Quyền cai trị của các giáo hoàng bị gián đoạn một thời gian ngắn do Cộng hòa Roma (1798–1800), chế độ này được dựng lên do ảnh hưởng của Cách mạng Pháp.[112] Vương quốc Giáo hoàng được khôi phục vào tháng 6 năm 1800, tuy nhiên trong thời kỳ Napoléon cai trị thì Roma bị thôn tính thành một tỉnh của Đế quốc Pháp, ban đầu là Département du Tibre (1808–1810) và sau là Département Rome (1810–1814).[113] Sau khi Napoléon bị phế truất, nhà nước của Giáo hoàng được khôi phục thông qua Đại hội Viên, Áo năm 1814.[114]

Năm 1849, một thể chế Cộng hòa Roma khác xuất hiện trong làn sóng các cuộc cách mạng năm 1848. Hai trong số các nhân vật có ảnh hưởng nhất của quá trình thống nhất nước ÝGiuseppe MazziniGiuseppe Garibaldi chiến đấu cho nền cộng hòa yểu mệnh.[115]

Binh sĩ Ý phá cổng thành Pia và tiến vào Roma ngày 20 tháng 9 năm 1870.

Roma sau đó trở thành tâm điểm của hy vọng tái thống nhất Ý, khi mà phần còn lại của Ý đã thống nhất thành Vương quốc Ý với thủ đô lâm thời tại Firenze. Năm 1861, Roma được tuyên bố là thủ đô của Ý dù vẫn đang do Giáo hoàng kiểm soát. Trong thập niên 1860, tàn dư của Vương quốc Giáo hoàng nằm dưới quyền bảo hộ của Pháp, nhờ vào chính sách đối ngoại của Napoléon III. Phải đến khi người Pháp rời khỏi Roma vào năm 1870 do Chiến tranh Pháp-Phổ thì binh sĩ Ý mới có thể chiếm giữ Roma, họ tiến vào thành phố qua một lỗ thủng tường thành gần Cổng thành Pia.[116] Sau đó, Giáo hoàng Piô IX tự tuyên bố mình là tù nhân tại Vatican, và đến năm 1871 thủ đô của Ý cuối cùng đã được chuyển từ Firenze đến Roma.[117]

Quân Đồng Minh ném bom Roma năm 1943.

Không lâu sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Roma chứng kiến Phát xít Ý trỗi dậy dưới quyền lãnh đạo của Benito Mussolini. Ông ta tiến hành cuộc hành quân đến thủ đô vào năm 1922, cuối cùng tuyên bố một Đế quốc Ý và liên minh với Đức Quốc xã. Mussolini phá huỷ nhiều phần rộng lớn tại trung tâm thành phố nhằm xây dựng các đại lộ và quảng trường rộng, được cho là để tán dương chế độ phát xít và hồi sinh La Mã cổ đại.[118][119] Giai đoạn giữa hai thế chiến chứng kiến dân số thành phố gia tăng nhanh chóng, vượt qua một triệu người.[120] Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, do sở hữu kho tàng nghệ thuật và hiện diện của Vatican, nên Roma phần lớn thoát khỏi số phận bi thảm như nhiều thành phố châu Âu khác. Tuy nhiên, vào ngày 19 tháng 7 năm 1943, khu San Lorenzo bị quân Anh-Mỹ oanh tạc, khiến khoảng 3.000 người thiệt mạng tại chỗ và 11.000 người bị thương và sau đó có thêm 1.500 người chết.[121] Sau khi chế độ Mussolini sụp đổ và Hoà ước Ý vào ngày 8 tháng 9 năm 1943, thành phố bị người Đức chiếm đóng, và được tuyên bố là thành phố mở theo sau sự kiện Giải phóng Roma vào ngày 4 tháng 6 năm 1944.[122]

Roma phát triển rất nhanh sau chiến tranh, là một trong các động lực chính đằng sau "kỳ tích kinh tế Ý" về tái thiết và hiện đại hóa thời hậu chiến trong thập niên 1950 và đầu thập niên 1960.[123][124] Trong giai đoạn này, những năm la dolce vita ("cuộc sống ngọt ngào"), Roma trở thành một thành phố thời thượng, với các phim cổ điển đại chúng như Ben Hur, Quo Vadis, Roman HolidayLa Dolce Vita được quay tại xưởng phim Cinecittà có tính biểu tượng của thành phố.[125] Xu hướng tăng trưởng dân số tiếp tục cho đến giữa thập niên 1980 khi thành phố đạt trên 2,8 triệu cư dân. Sau đó, dân số bắt đầu giảm chậm do cư dân bắt đầu chuyển đến các vùng ngoại ô lân cận Roma.

Tòa thị chính Roma là Điện Senatorio, nằm trên ngọn đồi Capitolinus.

Tổ chức hành chính và chính quyền[sửa | sửa mã nguồn]

Chính quyền thành phố[sửa | sửa mã nguồn]

Địa phương Roma hiến lập thành một đô thị cấp huyện đặc biệt (comune speciale) có tên chính thức là Roma Capitale ("Roma Thủ đô"),[126] và lớn nhất về diện tích và dân số trong tổng số 8.101 các huyện hành chính (comune) của Ý. Thành phố nằm dưới quyền quản lý của một thị trưởng và một hội đồng thành phố. Văn phòng trụ sở đặt tại Điện Senatorio trên đồi Capitolinus, nơi đầu não lịch sử của chính quyền thành phố. Chính quyền thành phố tại Roma thường được gọi là "Campidoglio", tên của ngọn đồi này trong tiếng Ý.

Tổ chức hành chính[sửa | sửa mã nguồn]

Kể từ năm 1972, thành phố được chia thành các quận hành chính gọi là municipio (trước năm 2001 gọi là circoscrizione).[127] Chúng được lập ra vì mục đích hành chính để tăng cường phi tập trung hoá tại khu trung tâm thành phố. Mỗi quận nằm dưới quyền quản lý của một chủ tịch và một hội đồng gồm 25 thành viên, họ được các cư dân bầu ra mỗi 5 năm. Các quận thường vắt qua các ranh giới của các phân khu truyền thống, phi hành chính của thành phố. Số lượng quận ban đầu là 20, sau còn 19,[128] và đến năm 2013 con số này giảm còn 15.[129]

Quận Tên Dân số (người)
31 tháng 12 năm 2015
Diện tích
(km²)
Mật độ
(người/km²)
Bản đồ
Quận 1 Centro Storico
Trung tâm lịch sử
186.802 19,91 9.382 15 quận của Roma
Quận 2 Parioli - Nomentano 167.736 19,60 8.567
Quận 3 Monte Sacro
Núi Thánh
204.514 97,82 2.091
Quận 4 Tiburtina 177.084 49,15 3.603
Quận 5 Prenestino - Centocelle 246.471 27,00 9.137
Quận 6 Roma delle Torri
Roma của những ngọn tháp
256.261 113,40 2.261
Quận 7 San Giovanni - Cinecittà
Thánh Gioan - Cinecittà
307.607 46,80 6.580
Quận 8 Appia Antica
Đường cổ Appia
131.082 47,29 2.772
Quận 9 EUR 180.511 183,17 985
Quận 10 Ostia 230.544 150,64 1.530
Quận 11 Arvalia - Portuense 154.871 70,90 2.185
Quận 12 Monte Verde
Núi Xanh
140.996 73,12 1.928
Quận 13 Aurelia 133.813 68,70 1.949
Quận 14 Monte Mario
Núi Mario
190.513 131,30 1.451
Quận 15 Cassia - Flaminia 158.561 186,70 849
Tổng cộng 15 quận 2.867.366 người 1.285,5 km² 2.230 người/km²

Khu trung tâm lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Phường thứ 13 Trastevere, một trong những khu phố cổ nổi tiếng nhất của Roma.

Roma còn được chia theo nhiều loại đơn vị phi hành chính khác nhau. Trung tâm lịch sử của Roma được chia thành 22 phường, gọi là rione, toàn bộ đều nằm trong tường thành Aurelianus ngoại trừ hai phường PratiBorgo. Chúng bắt nguồn từ các khu vực của thành Roma cổ đại, tiến hoá vào thời trung cổ thành các rione trung cổ.[130] Đến thời Phục Hưng, dưới quyền Giáo hoàng Xíttô V, chúng lại đạt đến con số 14, ranh giới của chúng cuối cùng được xác định dưới thời Giáo hoàng Biển Đức XIV vào năm 1743.

Một cách phân chia mới của thành phố dưới thời Napoléon nhanh chóng biến mất, và không có thay đổi rõ rệt nào về tổ chức của thành phố cho đến năm 1870, khi Roma trở thành thủ đô của Ý. Nhu cầu về thủ đô mới dẫn đến bùng nổ về đô thị hoá lẫn dân số trong và ngoài tường thành Aurelianus. Năm 1874, phường thứ 15 là Esquilino được tạo ra tại vùng mới đô thị hoá của phường Monti.[131] Khi bước vào thế kỷ 20, các phường khác được tạo ra là Prati, và cũng là cuối cùng. Sau đó, các phân khu hành chính chính mới của thành phố sử dụng tên quartiere ("khu"). Ngày nay, toàn bộ các phường rione là đều thuộc Quận 1, tương đương với khu vực trung tâm lịch sử (Centro Storico).[129]

Chính quyền thành phố đô thị và vùng hành chính[sửa | sửa mã nguồn]

Roma là tỉnh lỵ của Thành phố đô thị Roma Thủ đô hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 2015. Thành phố đô thị này thay thế tỉnh Roma cũ, bao gồm vùng đại đô thị của thành phố và trải rộng về phía bắc đến Civitavecchia. Thành phố đô thị Roma Thủ đô lớn nhất về diện tích tại Ý với 5.352 km², tương đương với vùng Liguria. Roma còn là thủ phủ của vùng hành chính Lazio.

Chính quyền trung ương[sửa | sửa mã nguồn]

Roma là thủ đô của Ý, và là nơi đặt trụ sở của chính Ý. Các dinh thự chính thức của Tổng thống ÝThủ tướng Ý, trụ sở lưỡng viện Nghị viện Ý và của Toà án Hiến pháp Ý nằm tại trung tâm lịch sử của thành phố. Các bộ của nhà nước nằm phân tán khắp thành phố; trong đó bao gồm Bộ Ngoại giao và Hợp tác Quốc tế được đặt tại Điện Farnesina gần sân vận động Olimpico.

Địa lý[sửa | sửa mã nguồn]

Đảo Tiberina là khúc cạn tự nhiên nằm giữa sông Tiber, trung tâm Roma.

Vị trí lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Roma hình thành bên lưu vực sông Tiber thuộc vùng Latium lịch sử, ngày nay là vùng Lazio miền Trung Ý. Khu dân cư ban đầu phát triển trên bảy ngọn đồi đối diện một khúc cạn gần đảo Tiberina, là khúc cạn tự nhiên duy nhất của sông tại khu vực này. Trong suốt chiều dài lịch sử từ thời cổ đại đến cuối thế kỷ 19, giới hạn đô thị của thành Roma được xem là khu vực nằm bên trong chu vi tường thành Aurelianus, có diện tích 13,7 km².[132]

Ban đầu, tường thành Servius được xây 12 năm sau khi người Gallia cướp phá thành phố vào năm 387 TCN.[133] Nó bao gồm phần lớn các đồi Esquilinus và Caelius, cũng như toàn bộ năm đồi còn lại. Roma nhanh chóng phát triển ra ngoài tường thành này, và không cần xây dựng thêm bất cứ pháo đài phòng thủ nào khác bởi sự ổn định do Thái bình La Mã mang lại và sự bảo vệ của quân đội La Mã, mãi cho đến gần 700 năm sau tức năm 270 do cuộc khủng hoảng thế kỷ thứ Ba và họa xâm lăng của các bộ tộc man rợ,[134] Hoàng đế Aurelianus bắt đầu cho xây dựng tường thành lớn kiên cố và đồ sộ hơn để bảo vệ Roma,[135] chúng dài gần 19 km, và chính là bức tường mà binh sĩ Vương quốc Ý phải vượt qua để tiến vào thành phố năm 1870 với sứ mạng thống nhất nước Ý.[116]

Lãnh thổ hiện đại[sửa | sửa mã nguồn]

Ảnh chụp vệ tinh của Roma.
Quan cảnh Roma từ trên không.

Từ thành La Mã cổ đại 14 km² làm cốt lõi, lãnh thổ thành phố Roma hiện đại vươn ra rất rộng lớn bao gồm cả những khu vực nguyên sơ hoặc bỏ hoang hàng thế kỷ và đầm lầy không phù hợp cho phát triển nông nghiệp cũng như đô thị. Với diện tích là 1.285 km², Roma là thành phố lớn nhất Ý và một trong những thủ đô khổng lồ của châu Âu xét về diện tích.[136] Do đó, mật độ dân số của thành phố Roma không phải là cao, với sự hiện diện của nhiều không gian phủ xanh rộng lớn trải khắp thành phố.[137] Địa giới Roma bị phân chia giữa các khu vực đô thị hóa cao độ và các khu vực được xác định là công viên, khu bảo tồn tự nhiên, và cho mục đích nông nghiệp.[138]

Quận 10 mang tên Ostia là quận giáp biển duy nhất của thủ đô.

Khu vực đô thị của thành phố được chia làm hai phần trong và ngoài thông qua đường vành đai Grande Raccordo Anulare ("GRA") hoàn thành vào năm 1962, nó bao quanh khu vực bên trong thành phố với bán kính khoảng 11 km tính từ đồi Capitolinus.[139] Mặc dù khi đường vành đai hoàn thành thì hầu hết các khu vực dân cư đều nằm bên trong nó (một trong số ngoại lệ là ngôi làng cổ đại Ostia nằm ven biển Tyrrhenum), song về sau nhiều khu đô thị mới được xây dựng nới rộng ra bên ngoài đến 20 km. Thành phố còn có một sông khác là Aniene, hợp lưu vào Tiber về phía bắc của khu vực trung tâm lịch sử.[140]

Mặc dù trung tâm Roma nằm cách biển Tyrrhenum khoảng 24 km, song địa giới thành phố trải dài đến bờ biển trên địa bàn Quận 10 ở phía tây nam, mang tên Ostia, do đó Roma là một trong số ít các thủ đô của châu Âu có bờ biển và đồng thời là thành phố giáp biển lớn nhất tại châu lục này với đường bờ biển dài 20 km.[141]

Địa hình[sửa | sửa mã nguồn]

Mô hình thành Roma cổ đại với bảy ngọn đồi La Mã tại Bảo tàng Văn minh La Mã.

Lãnh thổ hình thành nên Roma có lịch sử địa chất phức tạp: tầng mặt nền bao gồm vật chất do nham tầng tạo thành từ các núi lửa hiện không còn hoạt động, bao quanh khu vực thành phố về phía đông nam là núi lửa Latium ở dãy Albani và núi lửa Sabatini phía tây bắc, khoảng từ 300.000 đến 600.000 năm trước. Phần lớn các ngọn đồi tại Roma được hình thành từ thế địa tầng này. Sau đó, dòng chảy linh hoạt của sông Tiber và Aniene đã góp phần làm xói mòn các phù điêu và trầm tích đặc trưng cho lãnh thổ thực tế. Do đó, lãnh thổ của Roma thể hiện các cảnh quan thiên nhiên và đặc điểm môi trường khác nhau: một số ngọn núi và đồi (bao gồm bảy ngọn đồi La Mã lịch sử), các khu vực bằng phẳng, sông Tiber và các nhánh của nó, một hòn đảo trên sông (đảo Tiberina), bờ biển Ostia cũng như các hồ Bracciano và Martignano và các hồ nhân tạo.[142] Vành đai địa chấn của Roma được xếp vào vùng 3 tức có biên độ động đất ở mức thấp.[143]

Roma sơ khởi được xây dựng trên Bảy ngọn đồi La Mã bao gồm Aventinus, Caelius, Capitolinus, Esquilinus, Palatinus, QuirinalisViminalis. Khu trung tâm lịch sử còn bao gồm các đồi Janiculum, Pinciusđồi Vatican, cũng như các gò nhân tạo như núi Testaccio và núi Giordano. Bên ngoài những bức tường trải dài những ngọn đồi cao hơn như núi Mario (Monte Mario), núi Antenne, núi Parioli, núi Thánh (Montesacro) và núi Xanh (Monteverde). Độ cao Roma dao động từ 13 mét trên mực nước biển (tại nền đền Pantheon trung tâm thành phố) cho đến 139 mét trên mực nước biển tại núi Mario (nơi cao nhất tại Roma, từ đó người ta có thể ngắm một trong những khung cảnh đẹp nhất của thành phố).[144]

Khí hậu[sửa | sửa mã nguồn]

Tuyết được xem là hiếm có tại Roma.

Roma có khí hậu Địa Trung Hải (phân loại khí hậu Köppen: Csa),[145] với mùa đông mát và ẩm ướt còn mùa hè ấm và khô. Nhiệt độ trung bình năm là trên 20 °C (68 °F) vào ban ngày và 10 °C (50 °F) vào ban đêm. Trong tháng lạnh nhất là tháng 1, nhiệt độ trung bình là 12 °C (54 °F) vào ban ngày và 3 °C (37 °F) vào ban đêm. Trong các tháng nóng nhất là tháng 7 và tháng 8, nhiệt độ trung bình là 30 °C (86 °F) vào ban ngày và 18 °C (64 °F) vào ban đêm.

Các tháng 12, 1 và 2 là các tháng lạnh nhất, nhiệt độ trung bình ban ngày là 8 °C (46 °F). Nhiệt độ trong các tháng này thường dao động từ 10 đến 15 °C (50 - 59 °F) vào ban ngày và 3 đến 5 °C (37 - 41 °F) vào ban đêm, song thường xuyên có các đợt lạnh hơn hoặc ấm hơn. Tuyết rơi là hiện tượng hiếm song không phải là không có, các trận tuyết nhẹ hoặc mưa tuyết diễn ra hầu như mọi mùa đông, thường không tích tụ lại, và các đợt tuyết lớn diễn ra một lần trong khoảng mỗi 5 năm (gần đây nhất là vào năm 2018, trước đó là năm 2012).[146][147]

Độ ẩm tương đối trung bình là 75%, dao động từ 72% vào tháng 7 đến 77% vào tháng 11. Nhiệt đội biển dao động từ mức thấp 13 °C (55 °F) trong tháng 2 và tháng 3 đến mức cao 24 °C (75 °F) trong tháng 8.[148]

Dữ liệu khí hậu của Sân bay Ciampino Roma (độ cao: 105 m)
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Trung bình cao °C (°F) 11.9 13.0 15.2 17.7 22.8 26.9 30.3 30.6 26.5 21.4 15.9 12.6 20,4
Trung bình ngày, °C (°F) 7.5 8.2 10.2 12.6 17.2 21.1 24.1 24.5 20.8 16.4 11.4 8.4 15,2
Trung bình thấp, °C (°F) 3.1 3.5 5.2 7.5 11.6 15.3 18.0 18.3 15.2 11.3 6.9 4.2 10,0
Giáng thủy mm (inch) 66.9
(2.634)
73.3
(2.886)
57.8
(2.276)
80.5
(3.169)
52.8
(2.079)
34.0
(1.339)
19.2
(0.756)
36.8
(1.449)
73.3
(2.886)
113.3
(4.461)
115.4
(4.543)
81.0
(3.189)
804,3
(31,665)
Số ngày giáng thủy TB (≥ 1 mm) 7.0 7.6 7.6 9.2 6.2 4.3 2.1 3.3 6.2 8.2 9.7 8.0 79,4
Số giờ nắng trung bình hàng tháng 120.9 132.8 167.4 201.0 263.5 285.0 331.7 297.6 237.0 195.3 129.0 111.6 2.472,8
Nguồn: Servizio Meteorologico,[149] dữ liệu về số giờ nắng[150] (1971–2000)

Nhân khẩu[sửa | sửa mã nguồn]

Biểu đồ dân số thành Roma từ năm 270 TCN đến hiện đại (đơn vị: nghìn người)
Nguồn: ISTAT - Viện Thống kê Quốc gia Ý
Tranh mô phỏng lễ hội Carnival tại Roma năm 1650.

Năm 550 TCN, Roma là thành phố lớn thứ nhì tại Ý, sau Tarentum là thành phố lớn nhất. Roma từng có diện tích khoảng 285 hecta và dân số ước tính đạt 35.000. Các nguồn khác cho rằng dân số ở sát dưới mức 100.000 từ 600–500 TCN.[151][152] Đến khi nền Cộng hoà được thành lập vào năm 509 TCN, điều tra nhân khẩu ghi nhận dân số 130.000. Cộng hòa La Mã bao gồm bản thân thành phố và khu vực xung quanh. Các nguồn khác cho rằng dân số đạt 150.000 vào năm 500 TCN. Dân số Roma vượt 300.000 người vào năm 150 TCN.[153][154][155][156][157]

Quy mô thành phố vào thời Hoàng đế Augustus là vấn đề cần nghiên cứu, các ước tính dựa trên phân bổ lương thực, nhập khẩu lương thực, dung tích cống nước, giới hạn thành phố, mật độ dân số, báo cáo nhân khẩu, và giả định về số nữ giới, trẻ em và nô lệ không được báo cáo. Glenn Storey ước tính có 450.000 người, Whitney Oates ước tính 1,2 triệu, Neville Morely đưa ra con số 800.000 và loại trừ các đề xuất trước đó về mức 2 triệu.[158][159][160][161]

Lễ Phục sinh tại Roma năm 1840.

Sau khi Đế quốc Tây La Mã sụp đổ, dân số thành phố giảm xuống dưới 50.000 người. Dân số tiếp tục đình trệ hoặc giảm cho đến thời kỳ Phục Hưng.[162] Khi Vương quốc Ý sáp nhập Roma vào năm 1870, thành phố có dân số khoảng 200.000. Con số này tăng lên đến 600.000 ngay trước Chiến tranh thế giới thứ nhất. Chế độ phát xít của Mussolini nỗ lực ngăn chặn dân số gia tăng quá mức, song thất bại và dân số đạt đến một triệu vào đầu thập niên 1930. Tăng trưởng dân số tiếp tục sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhờ kinh tế bùng nổ thời hậu chiến. Bùng nổ trong xây dựng cũng tạo ra lượng lớn các khu ngoại ô trong thập niên 1950 và 1960.

Đến giữa thập niên 2010, có 2.754.440 cư dân sống trong địa giới thành phố, và có khoảng 4,2 triệu người sống trong vùng Đại Roma (gần tương ứng với ranh giới Thành phố đô thị Roma Thủ đô, với mật độ khoảng 800 người/km² trải rộng trên 5.000 km²). Năm 2010, người vị thành niên chiếm 17% dân số còn người ở độ tuổi nghỉ hưu là 20,76%, các con số tương đương của toàn quốc là 18,06% và 19,94%. Tuổi trung bình của cư dân Roma là 43 so với mức trung bình toàn quốc là 42. Trong vòng 5 năm từ 2002 đến 2007, dân số Roma tăng 6,54%, trong khi dân số Ý tăng 3,56%.[163] Tỷ suất sinh hiện tại của Roma là 9,1 ca sinh trên 1.000 dân khi so sánh với tỷ lệ sinh trung bình của Ý là 9,45.

Khu vực đô thị của Roma phát triển ra ngoài địa giới hành chính của thành phố, với dân số khoảng 3,9 triệu.[164] Từ 3,2 đến 4,2 triệu người sống trung vùng đại đô thị Roma.[165][166][167][168][169]

Phường Esquilino.

Các nhóm dân tộc thiểu số[sửa | sửa mã nguồn]

Theo điều tra của ISTAT vào năm 2009,[170] khoảng 9,5% dân số Roma không phải là người gốc Ý. Khoảng một nửa số cư dân nhập cư có nguồn gốc châu Âu (chủ yếu là Romania, Ba Lan, Ukraina, và Albania) với số lượng tổng cộng 131.118 hay 4,7% dân số. 4,8% còn lại là những người có nguồn gốc ngoài châu Âu, đông nhất là người Philippines (26.933), Bangladesh (12.154), và người Hoa (10.283).

Phường Esquilino nằm bên cạnh nhà ga trung tâm Termini phát triển thành một khu phố nhập cư cỡ lớn, được ví là phố Tàu của Roma. Người nhập cư từ trên một trăm quốc gia cư trú tại đây. Do là khu thương mại nên Esquilino có các nhà hàng mang đặc điểm của nhiều nền ẩm thực quốc tế. Trong số 1.300 cơ sở kinh doanh hoạt động tại phường, có 800 cơ sở do người Hoa sở hữu, khoảng 300 cơ sở do những người nhập cư khác điều hành, và 200 cơ sở thuộc sở hữu của người Ý.[171]

Tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Tôn giáo La Mã cổ đại[sửa | sửa mã nguồn]

Hoàng đế La Mã đầu tiên Augustus đồng thời đóng vai trò là Đại Tư tế (pontifex maximus) của tôn giáo đa thần La Mã.

Roma trước đây là trung tâm của Đa thần giáo La Mã, tôn giáo cổ điển có nguồn gốc gắn liền với lịch sử và truyền thống của Roma kể từ khi thành phố được hình thành. Mặc dù chịu ảnh hưởng và vay mượn phần lớn từ Hy Lạp cũng như các nền văn hóa khác như Etrusca hay Sabine, tôn giáo La Mã (tiếng Latinh: religio romana) sở hữu những đặc trưng độc đáo nhờ tính chất lịch sử, tâm lý và chính trị điển hình của xã hội La Mã. Tôn giáo La Mã cũng được đặc trưng bởi chu kỳ các lễ hội hàng năm, gắn liền với thành Roma; tuy nhiên, với sự mở rộng của đế chế, nhiều tôn giáo và giáo phái bí ẩn mới, chủ yếu đến từ phương Đông, đã lan rộng tại thành phố. Khác với thần thoại Hy Lạp, các vị thần La Mã không có sự tồn tại độc lập; tôn giáo La Mã cũng không tập trung nhiều vào các câu chuyện thần thoại hay nhấn mạnh hình thành hệ thống tư tưởng giáo lý mà thay vào đó đóng vai trò là "nhạc cụ công quyền" (tiếng Latinh: instrumentum regni): đã có từ giai đoạn cổ xưa của lịch sử La Mã và trên thực tế, các thể chế tôn giáo không tách biệt với chính trị.[172] Ban đầu, "Đại Tư tế" (tiếng Latinh: pontifex maximus) chức vụ quan trọng nhất của tôn giáo La Mã cổ đại được độc lập dưới thời Cộng hòa La Mã, sau đó dần dần bị chính trị hóa cho đến khi Augustus sáp nhập nó vào chức vị hoàng đế.[173] Các vị thần đầu tiên của người Roma là Jupiter (có vị thế cao nhất), Juno, Minerva, Vesta, Janus, Mars, vân vân hay các vị thần trừu tượng được nhân cách hóa khác. Theo truyền thuyết, Mars là chiến thần và là cha của hai người sáng lập Roma là Romulus và Remus. Ngoài ra còn có một số thần linh nhỏ với vai trò thần bảo hộ, như LaresPenate. Tôn giáo cổ xưa này là nền tảng của mos maiorum (nghĩa là "phong tục tổ tiên" hay đơn giản là "truyền thống"[174]) được xem là cốt lõi của bản sắc văn hóa La Mã,[175] bao gồm nguyên tắc tôn trọng thời gian, các hình mẫu thể hiện hành vi ứng xử chuẩn mực và những thực tiễn xã hội liên quan và ảnh hưởng đến đời sống cá nhân, chính trị và quân sự ở La Mã cổ đại. Gắn liền với tôn giáo đa thần, sự sùng bái hoàng gia cũng đã trở thành một trong những phương thức mà Roma quảng bá sự hiện diện của mình ở các tỉnh, để nuôi dưỡng lòng trung thành và bản sắc văn hóa chung trong toàn Đế quốc.[176]

Đối với người dân La Mã thông thường, tôn giáo La Mã đã trở thành một phần của cuộc sống thường nhật.[177] Mỗi nhà đều có một gian thờ trong gia đình của mình, nơi diễn ra sự cầu nguyện và nghi lễ rưới rượu cho các vị thần giữ nhà. Các đền thờ khu dân cư và những nơi linh thiêng như suối và lùm cây điểm xuyết khắp thành phố.[178] Lịch La Mã được xây dựng xung quanh những nghi lễ tôn giáo. Phụ nữ, nô lệ và trẻ em đều tham gia vào một loạt các hoạt động tôn giáo. Một số nghi lễ công cộng chỉ có thể được thực hiện bởi phụ nữ, và phụ nữ đã hình thành nên chức vụ tư tế được ủng hộ và nổi tiếng nhất Roma, Trinh nữ Vesta - người có nhiệm vụ trông giữ ngọn lửa của nữ thần Vesta thiêng liêng của Roma trong nhiều thế kỷ, cho đến khi tan rã dưới sự thống trị của Kitô giáo.[179]

Đền Pantheon là di tích hiếm hoi còn sót lại của đền thờ La Mã cổ đại "dành cho tất cả các vị thần của quá khứ, hiện tại và tương lai", thoát khỏi số phận bị phá hủy nhờ được cải đạo thành nhà thờ Kitô giáo vào năm 609.

Vào đầu thế kỷ thứ nhất, giống với những gì đang xảy ra tại các thành trì quan trọng khác của đế quốc, Kitô giáo lan truyền rất nhanh tại Roma, ban đầu được coi là một giáo phái Do Thái, các Kitô hữu thuộc mọi tầng lớp xã hội đã có tổ chức riêng cho mình tức giáo hội và lãnh đạo bởi một giám mục (sau này là giáo hoàng) được xem là người kế vị của Thánh Phêrô, vị tông đồ của Chúa Giêsu đã tử đạo tại Roma cùng với Thánh Phaolô, về sau cùng trở thành thánh quan thầy của thành phố.[180][181] Tư tưởng và đức tin theo thuyết độc thần của Kitô giáo bác bỏ phủ nhận đa thần đã tạo bối cảnh cho cuộc xung đột gay gắt giữa tôn giáo La Mã và đạo Kitô - mà Đế quốc La Mã luôn coi là một phong trào chủ nghĩa cực đoan bác bỏ đạo truyền thống và là hình thức mê tín dị đoan mới lạ, trong khi tín đồ Kitô giáo coi tôn giáo La Mã là ngoại đạo tà thần, mâu thuẫn này dẫn đến việc bách hại Kitô hữu trong nhiều thế kỷ. Theo sau sự kiện Constantinus Đại đế ban bố sắc lệnh Milano năm 313, việc bách hại chính thức chấm dứt và dọn đường cho sự trỗi dậy vươn lên vị thế độc tôn của đạo Kitô. Các chính sách bức hại ngoại đạo tà giáo không phải Kitô giáo bắt đầu từ thời Constantinus, các tôn tượng, đền thần bị đập phá hoặc bị cải đạo, việc thực hiện nghi lễ hiến tế và thờ phượng các hình ảnh đều bị cấm đoán và trở thành tội tử hình, tôn giáo đa thần La Mã truyền thống dần lụi tàn và bị xóa sổ ngay trên chính trụ xứ của mình, nhường chỗ cho đạo Kitô trở thành quốc giáo chính thức của toàn đế quốc, và giáo hội tại Roma nơi nắm giữ quyền Ngai Thánh Phêrô, đã làm tăng thêm quyền lực lễ nghi và sức mạnh tinh thần của bổn giáo đồng thiết lập nên mối quan hệ chặt chẽ với các thể chế chính trị thần quyền đặc trưng của nhiều thế kỷ về sau.[182][183][184][185][186][187][188]

Giáo hội Công giáo Roma[sửa | sửa mã nguồn]

Hiện tại, giống như phần lớn phần còn lại của Ý, Công giáo La Mã là tôn giáo chi phối tại Roma, và thành phố là trung tâm quan trọng nhất của tôn giáo này và là nơi hành hương trong nhiều thế kỷ, trở thành đầu não của VaticanGiáo hoàng. Mặc dù có một số gián đoạn (như chế độ giáo hoàng Avignon), Roma trong nhiều thế kỷ là trụ sở của Giáo hội Công giáo La Mã, và Giám mục thành Roma tức Giáo hoàng.

Tổng cộng có hơn 900 nhà thờ tại Roma, và thành phố sở hữu số lượng vương cung thánh đường (basilica, danh hiệu tôn vinh đặc biệt dành cho những nhà thờ có kiến trúc độc đáo cũng như tầm quan trọng về lịch sử và ý nghĩa tâm linh) nhiều hơn bất cứ nơi nào khác.[189] Trên thế giới chỉ có bốn nhà thờ giữ danh hiệu "đại vương cung thánh đường" (basilica maggiore) tức nhà thờ cấp cao nhất của Giáo hội, và chúng đều nằm tại Roma.[190] Mọi nhà thờ khác giữ danh hiệu "vương cung thánh đường" tại thành phố và trên thế giới đều là "tiểu vương cung thánh đường" (basilica minore).[191]

Mặc dù Roma có Thành Vatican và Vương cung thánh đường Thánh Phêrô,[192] song nhà thờ chính tòa của thành phố là Tổng lãnh vương cung thánh đường Thánh Gioan tại Laterano[193] nằm về phía đông nam của trung tâm, là nhà thờ cổ nhất tại Roma cũng như lâu đời nhất và quan trọng nhất trong thế giới phương Tây, là trụ sở của Giáo hội Công giáo về mặt danh nghĩa và là nơi đặt Ngai của Giáo hoàng,[194] nên có danh hiệu "Nhà thờ Mẹ và Đứng Đầu của tất cả các nhà thờ tại Roma và trên toàn thế giới".[195]

Bên cạnh nhà thờ chính tòa và nhà thờ Thánh Phêrô, hai nhà thờ còn lại trong bộ tứ đại vương cung thánh đường thuộc giáo hoàng là nhà thờ Đức Bà Cả[196]nhà thờ Thánh Phaolô Ngoại thành.[197] Ngoài ra, các nhà thờ đáng chú ý khác gồm có Vương cung thánh đường Thánh Clêmentê, Thánh Carlo tại Quattro Fontane, Nhà thờ Giêsu. Ngoài ra còn có các hầm mộ La Mã cổ đại nằm bên dưới thành phố. Nhiều tổ chức quan trọng giáo dục bậc cao về tôn giáo cũng nằm tại Roma, như Đại học Giáo hoàng Laterano, Viện Kinh Thánh Giáo hoàng, Đại học Giáo hoàng Gregoriana, Học viện Giáo hoàng Phương Đông.

Thành Vatican[sửa | sửa mã nguồn]

Quảng trường Thánh Phêrô nhìn từ trên cao.

Lãnh thổ Thành Vatican là bộ phận của Mons Vaticanus (đồi Vatican), và của phạm vi Vatican cũ lân cận, tại đây có Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Điện Tông Tòa, Nhà nguyện Sistina, và các bảo tàng cùng nhiều công trình khác. Khu vực là bộ phận của phường Borgo thuộc Roma cho đến năm 1929. Do Thành Vatican nằm ở phía bờ Tây của sông Tiber và tách biệt khỏi khu vực trung tâm thành phố, cho nên khu vực Vatican được bảo vệ trong các bức tường thành thời Giáo hoàng Lêô IV (847–855), sau đó mở rộng ra các bức tường pháo đài phòng thủ được xây thời Phaolô III (1534–1549), Piô IV (1559–1565) và Urbanô VIII (1623–1644) như hiện nay.[198][199][200]

Bảo tàng Vatican đứng thứ 4 trong số các bảo tàng được viếng thăm nhiều nhất thế giới.

Hiệp ước Laterano vào năm 1929 tạo ra nhà nước Vatican, ranh giới của lãnh thổ đề xuất chịu ảnh hưởng bởi thực tế là phần lớn chúng đều nằm trong vòng tường này. Tại một số đoạn biên giới không có tường, và giới hạn của các toà nhà nhất định tạo thành bộ phận của biên giới, và một đoạn nhỏ biên giới là một bức tường xây vào thời hiện đại. Trong lãnh thổ Vatican có Quảng trường Thánh Phêrô, tách khỏi lãnh thổ Ý chỉ qua một vạch màu trắng dọc giới hạn của quảng trường, và giáp với Quảng trường Piô XII. Quảng trường Thánh Phêrô nối liền với Via della Conciliazione (nghĩa là "Con đường Hòa giải"), con đường này chạy thẳng đến bờ sông Tiber. Lối vào lớn này do các kiến trúc sư Piacentini và Spaccarelli thiết kế, theo mong muốn của Benito Mussolini và được thoả thuận với giáo hội sau khi ký kết Hiệp định Laterano. Cũng theo hiệp định này, một số tài sản của Toà Thánh nằm trong lãnh thổ Ý, đáng chú ý nhất là Cung điện Giáo hoàng Castel Gandolfo và các đại vương cung thánh đường, chúng được hưởng vị thế đặc quyền lãnh thổ ngoại vi giống như các đại sứ quán nước ngoài.[201][202][203][204]

Hành hương[sửa | sửa mã nguồn]

Vương cung thánh đường Thánh Phêrô trong đêm, nhìn từ Con đường Hòa giải.

Với vai trò là trụ xứ của chế độ giáo hoàng và sở hữu đồ sộ các thánh tích tôn kính liên quan đến các tông đồ, các vị thánh cũng như những người tử đạo, Roma từ lâu đã là địa điểm hành hương lớn của các tín đồ Kitô giáo. Mọi người từ khắp nơi trên thế giới đến thăm Vatican nằm trong lòng thành Roma, nơi cư ngụ của giáo hoàng - nhân vật có ảnh hưởng nhất trong thời Trung Cổ. Thành phố trở thành địa điểm hành hương lớn trong thời Trung Cổ và là tâm điểm của cuộc đấu tranh giữa giáo hoàng và Đế quốc La Mã Thần thánh bắt đầu từ Charlemagne, người được trao ngôi hoàng đế đầu tiên ở Roma vào năm 800 bởi Giáo hoàng Lêô III.[205] Ngoài thời kỳ ngắn ngủi là một thành phố độc lập trong thời Trung Cổ, Roma vẫn giữ vị thế là thủ đô của Giáo hoàng và "thánh đô" Kitô giáo trong nhiều thế kỷ, ngay cả khi chế độ giáo hoàng chuyển đến Avignon, Pháp một thời gian ngắn (1309–1377). Người Công giáo tin rằng Vatican là nơi an nghỉ cuối cùng của Thánh Phêrô.[206][207]

Những chuyến hành hương đến Roma có thể bao gồm các chuyến viếng thăm một số lượng lớn các địa điểm, cả trong Thành phố Vatican và trên lãnh thổ Ý. Một điểm dừng phổ biến là bậc thang của Philatô: đó là, theo truyền thống Kitô giáo, các bước dẫn đến thảo nguyên Phongxiô PhilatôJerusalem, nơi Chúa Giêsu Kitô đặt chân trên đường bị đưa đi xét xử trong Cuộc thương khó của ông.[208] Trong nhiều thế kỷ, Scala Santa ("Bậc thang Thánh Linh") đã thu hút những người hành hương Kitô giáo muốn tôn vinh Cuộc thương khó của Giêsu, các nấc thang được cho là do Thánh Helena đem tới Roma trong thế kỷ thứ 4.[209] Các thánh địa để hành hương khác là một số cổ mộ được xây dựng từ thời La Mã, trong đó các Kitô hữu đã cầu nguyện, chôn cất người chết và thực hiện lễ cúng trong thời kỳ bị đàn áp,[210][211] và các nhà thờ quốc gia khác nhau (trong đó có San Luigi dei Francesi và Santa Maria dell'Anima), hoặc nhà thờ liên kết với các dòng tôn giáo cá thể, như Nhà thờ Dòng Tên của Chúa Giêsu và Sant'Ignazio.

Bên trong Nhà thờ Thánh Phaolô Ngoại thành.

Theo truyền thống, những người hành hương đến Roma và công dân của Roma cảm ơn Chúa vì ân sủng nên đến thăm trực tiếp bằng chân đến bảy nhà thờ hành hương (tiếng Latinh: septem ecclesiarum, tiếng Ý: sette chiese) trong 24 giờ của ngày Thứ Tư trong Tuần Thánh.[212] Phong tục này bắt buộc đối với mỗi người hành hương vào thời Trung Cổ đã được Thánh Philipphê Nêri chuẩn hóa vào thế kỷ 16, kết hợp yếu tố ngày lễ và chia sẻ kinh nghiệm tôn giáo phổ quát thông qua việc khám phá di sản của các vị Thánh hữu tiên khởi,[213] theo đó tại mỗi nhà thờ sẽ diễn ra sự cầu nguyện, hát thánh ca và một buổi giảng giáo lý ngắn.[214] Bảy nhà thờ truyền thống bao gồm tứ đại vương cung thánh đường (Thánh Phêrô tại Vatican, Thánh Phaolô ở Ngoại thành, Thánh Gioan tại LatêranôĐức Bà Cả), ba nhà thờ còn lại là Thánh Lôrensô Ngoại thành (một nhà thờ Kitô tiên khởi), nhà thờ Thánh Giá Gerusalemme (một nhà thờ được thành lập bởi Thánh Helena, mẹ của Constantinus, nơi lưu trữ những mảnh gỗ được gán cho thánh giá) và Thánh Sêbastianô Ngoại thành (nằm trên đường Appia và được xây dựng trên cổ mộ La Mã). Vào năm thánh 2000, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã thay thế nhà thờ Thánh Sêbastianô bằng Nhà thờ Đức Bà Tình Thương Cao Thượng (Madonna del Divino Amore),[215] tuy vậy nhiều người hành hương vẫn thích bảy nhà thờ truyền thống trước đó và do vậy họ đến thăm thêm Thánh Sêbastianô Ngoại thành dành những ai có nguyện vọng xin xá tội, hoặc thậm chí không viếng Đức Bà Tình Thương Cao Thượng do thực tế việc đi bộ từ đó đến khu vực nội thành Roma mất ít nhất một nửa ngày đường trong quá trình hành hương và cho rằng sẽ được xá tội nếu đến viếng tứ đại vương cung thánh đường sau đó.

Tôn giáo khác[sửa | sửa mã nguồn]

Trong những năm gần đây, có sự tăng trưởng rõ rệt trong cộng đồng Hồi giáo tại Roma chủ yếu là do nhập cư từ các quốc gia Bắc Phi và Trung Đông đến thành phố. Do số người hành đạo Hồi giáo tại địa phương tăng lên, xúc tiến xây dựng Thánh đường Hồi giáo Roma. Được khánh thành vào ngày 21 tháng 6 năm 1995, có diện tích 30.000 m2 với sức chứa hơn 12.000 người, đây là thánh đường Hồi giáo lớn nhất trong thế giới phương Tây và là nơi đặt trụ sở Trung tâm văn hóa Hồi giáo tại Ý.[216][217]

Kể từ khi kết thúc nền Cộng hoà La Mã, Roma cũng là trung tâm của một cộng đồng Do Thái quan trọng,[218] cổ nhất tại châu Âu. Do Thái giáo theo truyền thống bị giới hạn trong khu vực Ghetto Roma dưới sự quy định của giáo hoàng. Với hơn 20.000 người, họ có phương ngữ riêng đặc trưng của mình. Đại hội đường Do Thái Roma hay Tempio Maggiore là trung tâm thờ kính quan trọng nhất của người Do Thái trong thành phố.[219]

Roma cũng có sự hiện diện của một bộ phận nhỏ Tin Lành, Chính thống giáo và các tín ngưỡng khác. Việc xây dựng khu phức hợp Đền thờ Mặc Môn ở Roma đã được công bố vào ngày 4 tháng 10 năm 2008 bởi Thomas S. Monson, chủ tịch của Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô tại một đại hội.[220] Ngôi đền đã được khánh thành vào ngày 14 tháng 1 năm 2019,[221] trở thành nhà thờ Mặc Môn đầu tiên tại Ý,[222] bao gồm trung tâm Palo (nhà hội họp), trung tâm tiếp đón, trung tâm lịch sử gia đình, nhà khách và các khu vườn,[223] phục vụ các thành viên của Giáo hội Mặc Môn tại Hy Lạp, Síp, Albania, Slovenia, Croatia, Bosnia và HerzegovinaMacedonia, cũng như 26.000 thành viên của giáo phái tại Ý.[224]

Kiến trúc và cảnh quan thành phố[sửa | sửa mã nguồn]

Đấu trường La MãKhải hoàn môn Constantinus.
Quảng trường Nhân Dân, Roma năm 1750.

Kiến trúc của Roma trong nhiều thế kỷ đã phát triển rất mạnh, đặc biệt là từ phong cách cổ điển và Đế quốc La Mã chuyển sang phong cách kiến trúc phát xít hiện đại. Trong một thời gian, Roma đã từng là trung tâm kiến trúc cổ điển chính của thế giới, phát triển những dạng thức kiến trúc mới như các loại vòm, mái vòm và khung vòm. Phong cách kiến trúc Roman trong thế kỷ 11, 12 và 13 cũng được áp dụng rộng rãi trong kiến trúc La Mã, sau đó thành phố trở thành một trong những trung tâm chính của kiến trúc Phục Hưng, Baroque và tân cổ điển.[225]

La Mã cổ đại[sửa | sửa mã nguồn]

Một trong những biểu tượng của Roma là Đấu trường La Mã (bắt đầu xây dựng từ năm 72 và hoàn thành vào năm 80), một khán đài vòng cung ngoài trời lớn nhất từng được xây dựng tại Đế chế La Mã và hiện tại vẫn là khán đài vòng cung lớn nhất thế giới.[226] Sức chứa ban đầu của khán đài là 60.000 khán giả, và không gian này được sử dụng cho những cuộc tranh tài của các võ sĩ giác đấu và các sự kiện công cộng khác như chương trình săn bắn, tái hiên các trận chiến và dàn dựng kịch sân khấu nổi tiếng dựa trên thần thoại cổ điển. Các di tích và địa điểm nổi tiếng của La Mã cổ đại bao gồm Công trường La Mã, Công trường Hoàng đế tòa nhà Domus Aurea, đền Pantheon, Cột Traianus, Chợ Traianus, cổ mộ, tường thành Serviustường thành Aurelianus cũng như các cổng thành, trường đua ngựa cổ đại Circus Maximus, nhà tắm công cộng Caracalla, Lâu đài Thiên Thần, Lăng Augustus, Ara Pacis, Khải hoàn môn Constantinus, Kim tự tháp Cestius và bức tượng khắc Miệng Sự Thật.

Trung Cổ[sửa | sửa mã nguồn]

Các khu phố nổi tiếng thời Trung Cổ của thành phố, chủ yếu nằm quanh đồi Capitonilus, phần lớn đã bị phá hủy từ cuối thế kỷ 19 và thời kỳ phát xít, nhưng nhiều công trình đáng chú ý vẫn còn. Các vương cung thánh đường có niên đại từ buổi đầu của Kitô giáo, bao gồm Vương cung thánh đường Đức Bà CảVương cung thánh đường Thánh Phaolô Ngoại thành (sau này đã được đại trùng tu lại vào thế kỷ 19). Cả hai tòa nhà đều được chạm khắc những họa tiết trang trí tinh vi mang giá trị thẩm mỹ cao từ thế kỷ thứ 4 TCN. Phong cách nghệ thuật tranh tường và nghệ thuật khảm thời Trung Cổ đáng chú ý khác cũng có thể được tìm thấy trong các nhà thờ như Vương cung thánh đường Đức Bà Trastevere, Santi Quattro CoronatiSanta Prassede. Những công trình thế tục gồm một lượng lớn tháp, trong đó lớn nhất là tháp MilizieConti. Cả hai đều nằm kế Công trường La Mã và cầu thang lớn dẫn đến Vương cung thánh đường Đức Bà Aracoeli.

Phục Hưng và Baroque[sửa | sửa mã nguồn]

Bên cạnh cái nôi Firenze, Roma là trung tâm Phục Hưng lớn của thế giới, và là nơi mà nghệ thuật Phục Hưng đạt đến đỉnh cao, vươn đến sự hoàn mỹ và hài hòa cao độ, còn gọi là thời kỳ Thượng Phục Hưng. Giai đoạn này có một kiệt tác của kiến trúc Phục Hưng ở Roma là Quảng trường Campidoglio do Michelangelo thiết kế. Cũng ở thời điểm này, các gia đình quý tộc lớn của Roma thường xây dựng những nơi ở sang trọng như Điện Quirinale (nay là trụ sở của Tổng thống Cộng hòa Ý), Điện Venezia, Điện Farnese, Điện Barberini, Điện Chigi, Điện Spada, Điện CancelleriaBiệt thự Farnesina.

Nhiều quảng trường nổi tiếng của thành phố vẫn giữ nguyên hình dáng được tạo từ thời Phục Hưng và Baroque. Trong đó một số quảng trường rất lớn, hoành tráng với bút tháp trang trí đặt ở giữa, một số quảng trường khác thì nhỏ và thơ mộng. Những quảng trường chính là Quảng trường Navona, Quảng trường Tây Ban Nha, Campo de' Fiori, Quảng trường Venezia, Quảng trường Farnese, Quảng trường RotondaQuảng trường Minerva. Một trong những ví dụ điển hình nhất của nghệ thuật Baroque là đài phun nước Trevi của Nicola Salvi. Những cung điện Baroque đáng chú ý khác của thế kỷ 17 là Điện Madama, ngày nay là trụ sở của Thượng viện Ý và Điện Montecitorio, ngày nay là trụ sở của Hạ viện Ý.

Tân cổ điển[sửa | sửa mã nguồn]

Đài tưởng niệm quốc gia Vittoriano.

Trong thập kỷ đầu tiên sau khi trở thành thủ đô của nước Ý thống nhất, Roma vẫn giữ nguyên hiện trạng với các công trình cổ xưa. Thành phố có kích thước khiêm tốn vào năm 1870, trôi nổi theo nghĩa đen trong giới hạn của tường thành Aurelianus, với nhiều không gian còn nguyên sơ, thành phố vẫn còn đậm chất tỉnh lẻ, không thiết thực, với những con đường quanh co và thiếu vắng tất cả các dịch vụ cơ bản của một đô thị hiện đại. Nhiều hoạt động quy hoạch đô thị cần thiết đã diễn ra bao gồm kiến thiết các tòa nhà hành chính quan trọng (các trụ sở chính phủ, cơ quan Bộ ngành, Điện Công Lý, Trung tâm Triễn lãm, các đại sứ quán), hình thành những con đường mới (đường Vittorio Emanuele II, đường 20 tháng 9), xây dựng nhà ở cho các quan chức mới, phát triển các cơ sở hạ tầng (bệnh viện, lò mổ, doanh trại), cải tạo bộ mặt hai bên bờ Tiber.[227][228][229] Các nghệ sĩ và kiến trúc sư thế kỷ 18 đã tìm tòi một phương hướng phong cách mới mà không phải gắn liền với Giáo hội. Họ xem lại các nền văn minh cổ đại Hy-La thời kỳ tiền Kitô giáo và hình thành nên một trường phái kiến trúc mới dựa trên trật tự, cân bằng và hài hòa, đã chiếm ưu thế vượt trội trong kiến trúc tại Roma lúc bấy giờ.[230][231]

Một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của trường phái tân cổ điển La Mã là Đài tưởng niệm quốc gia Vittoriano, đã phá hủy một phần lớn đồi Capitolinus và khu phố Trung Cổ lân cận để xây dựng,[232] là nơi tổ quốc ghi công các chiến sĩ vô danh, đại diện cho 650.000 người Ý đã ngã xuống trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Điện Công Lý nằm tại Quảng trường Cavour, là một ví dụ điển hình về chủ nghĩa chiết trung. Triển lãm quốc tế về nghệ thuật năm 1911 đã khai sinh ra khu quảng trường Mazzini, cũng như việc tạo ra Phòng tranh quốc gia về Nghệ thuật Hiện đại. Một bản thảo tiền đề cho kế hoạch mở rộng thành phố về phía biển (Ostia, Fregene) đã được đưa ra vào năm 1916. Khu Coppedè (1921-1927) là một ví dụ nổi bật của kiến ​​trúc Art Nouveau. Các thành phố vườn như khu Garbatella đẹp như tranh đã được hình thành từ những năm 1920.[233]

Phát xít[sửa | sửa mã nguồn]

Chế độ phát xít cai trị ở Ý trong khoảng thời gian từ 1922 đến 1943 đã lưu dấu tại Roma. Mussolini cho phép xây dựng những con đường và quảng trường mới, dẫn đến sự phá hủy các con đường, nhà cửa, nhà thờ và cung điện được dựng lên trong thời cai trị của giáo hoàng. Các hoạt động chính trong chính phủ của ông là: "cô lập" đồi Capitolinus; phố Monti, sau đổi tên là phố Impero, và cuối cùng là phố Fori Imperiali; đường Mare, sau đổi tên thành phố Teatro di Marcello; "cô lập" của Lăng Augustus, với sự dựng lên của Quảng trường Augusto Imperatore; Con đường Hòa giải.[234][235]

Benito Mussolini.

Về mặt kiến trúc, chủ nghĩa phát xít ưa thích các phong trào hiện đại nhất, như kiến trúc chủ nghĩa duy lý. Song song với điều này, vào những năm 1920, một phong cách khác đã xuất hiện, có tên là "Stile Novecento" đã phát triển một phong cách kiến trúc đặc trưng bởi sự liên kết với kiến trúc La Mã cổ đại. Một công trình quan trọng trong phong cách này là Công trường Mussolini, nay là Công trường Italico, bởi Enrico Del Debbio. Bên cạnh đó, nơi lưu dấu kiến trúc phát xít quan trọng nhất ở Roma là khu vực E.U.R. do Marcello Piacentini thiết kế vào năm 1938. Các tòa nhà tiêu biểu nhất của EUR là Điện Civiltà Italiana (1938–1943), thiết kế mang tính biểu tượng đã được xem như khối lập phương của 'Đấu trường La Mã hình vuông', và Điện Congressi, ví dụ về phong cách chủ nghĩa duy lý. Ban đầu khu này được hình thành với mục đích dành cho cuộc Triển lãm Thế giới 1942 ("Esposizione universale 1942") và có tên gọi là "E.42" ("Esposizione 42"). Tuy nhiên, triển lãm thế giới đã không có dịp diễn ra vì năm 1940 nước Ý bước vào chiến tranh thế giới thứ hai và các tòa nhà tiêu điểm đã bị phá hủy một phần vào năm 1943 trong cuộc chiến giữa quân đội Ý và Đức sau khi đình chiến và sau đó bị bỏ hoang. Khu vực được khôi phục vào thập niên 1950, khi chính quyền Roma nhận thấy rằng họ đã có những mầm mống của một khu kinh tế ngoài trung tâm như những thủ đô khác mà hiện trong thời gian đó vẫn còn đang quy hoạch (như xưởng đóng tàu London DocklandsLa DéfenseParis). Ngoài ra Điện Farnesina, nơi đóng trụ sở của Bộ Ngoại giao Ý ngày nay, được thiết kế vào năm 1935 theo phong cách phát xít thuần chất.[236][237][238]

Đương đại[sửa | sửa mã nguồn]

Roma bước ra khỏi Chiến tranh thế giới thứ hai với rất ít những vụ ném bom tàn phá. Năm thánh năm 1950 là cơ hội để thực hiện xong nhà ga trung tâm Termini cũng như đường Cristoforo Colombo nối Roma đến biển.[239] Quận EUR được hoàn thành và trở thành quận kinh tế tài chính, và tuyến tàu điện ngầm đầu tiên được mở vào năm 1955.[240] Để phục vụ Thế vận hội Mùa hè 1960, Sân vận động Olimpico và hai điện thể thao khác được xây dựng, cũng như Làng Olimpico. Bên cạnh sân bay truyền thống Ciampino, một sân bay mới - Sân bay quốc tế Leonardo da Vinci tại Fiumicino đã được khánh thành vào năm 1961 để đáp ứng nhu cầu ngày càng mở rộng và trở thành sân bay chính của Roma.[241][242]

Trung tâm thành phố đã trải qua nhiều cuộc cải tạo mở rộng trong Năm Thánh 2000, và các cung điện nhuốm màu thổ hoàng do thời gian đã được khôi phục lại gam màu nhạt vốn có ban đầu của chúng trong các chiến dịch cải tạo này.[243] Từ đầu thế kỷ 21, Roma bắt đầu khánh thành các tòa nhà mới theo kiến trúc đương đại: Auditorium Parco della Musica vào năm 2002, Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại Roma (MACRO) năm 2002, MAXXI năm 2010 và Trung tâm Hội nghị Roma, khánh thành vào năm 2016 tại quận EUR.[244]

Không gian xanh và hệ sinh thái[sửa | sửa mã nguồn]

Công viên công cộng và khu bảo tồn thiên nhiên chiếm một khu vực rộng lớn ở Roma. Có thể nói, Roma là thành phố có một vùng không gian xanh bao phủ thuộc hàng lớn nhất trong các thủ đô châu Âu.[245]

Phần đáng chú ý nhất của khu không gian xanh này đặc trưng bởi rất nhiều biệt thự và khu vườn của các tầng lớp quý tộc Ý. Tuy nhiều nhiều biệt thự đã bị phá hủy trong giai đoạn bùng nổ xây dựng cuối thế kỷ 19 nhưng vẫn còn sót lại một lượng lớn. Đáng chú ý nhất trong số này là các biệt thự Borghese, biệt thự Adabiệt thự Pamphili Doria. Biệt thự Pamphili Doria nằm ở phía tây của ngọn đồi Janiculum rộng 1,8 km². Ngoài ra trên đồi Janiculum còn có biệt thự Sciarra với các sân chơi cho trẻ em và những khu vực đi bộ phủ bóng mát. Tại khu vực lân cận của Vườn Bách thảo Roma (Orto Botanico) là một không gian xanh thoáng mát và lợp phủ bóng râm. Trường đua ngựa La Mã cổ đại Circus Maximus là một không gian xanh lớn khác nhưng sự thu hút chính ở đây là các địa điểm đua xe ngựa cổ xưa, còn cây thì tương đối ít. Gần đó là biệt thự Celimontana tươi tốt, gần các khu vườn xung quanh nhà tắm công cộng CaracallaVườn Hoa hồng. Khu vườn của biệt thự Borghese là một không gian xanh lớn và nổi tiếng nhất ở Roma, nơi đây có các phòng trưng bày nghệ thuật trứ danh nằm giữa các lối đi bộ phủ bóng mát cây xanh. Nó nằm gần với Bậc thang Tây Ban NhaQuảng trường Nhân Dân. Roma cũng có nhiều vườn địa phương được hình thành gần đây hơn như vườn địa phương Pineto và Appia. Ngoài ra còn có các khu bảo tồn thiên nhiên tại Marcigliana và Tenuta di Castelporziano.

Công trường Tháp Argentina, nơi khi xưa Caesar bị mưu sát bởi Viện Nguyên Lão, nay là khu di tích trú ẩn mèo hoang lớn nhất tại Roma.

Hàng nghìn loài động vật, động vật có xương sốngđộng vật không xương sống sống trong thành phố vĩnh hằng. Điển hình nhất tại Đấu trường La Mã và khu vực khảo cổ xung quanh là những chú mèo hoang, được chính quyền thành phố công nhận là "Di sản văn hóa - sinh học của Roma" từ năm 2001 (ví dụ duy nhất ở Ý về quyết định như vậy).[246] Những chú mèo La Mã có khoảng 300.000 cá thể, sinh sống trong các tàn tích cổ xưa và đi hoang khắp nơi, được nhóm lại trong ít nhất 400 điểm trú ẩn mèo được xác định là môi trường sống tự do theo luật.[247] Nhiều người dân Roma chủ yếu là phụ nữ quan tâm chăm sóc và cho chúng ăn. Từ đó, thuật ngữ "gattare" trong tiếng Ý dùng để chỉ những người phụ nữ này.[248][249]

Trong số các loài chim, loài sáo đá xanh đặc trưng được ước tính có khoảng 5 triệu cá thể.[250] Roma trong nhiều năm là thành phố Ý có số lượng lớn nhất về loài chim này, đã tràn ngập đô thị kể từ thời hậu chiến sau sự phá hủy nhiều vùng đất ngập nước ngoại ô, và chúng tìm thấy môi trường đô thị có ít động vật ăn thịt và sinh sống dễ dàng hơn. Các khu vực đầu tiên bị chiếm giữ bởi những con chim này là các khu vực phủ xanh của Điện Venezia, Biệt thự Torlonia và Quảng trường Cavour, tiếp theo vào năm 1970 bởi Biệt thự Ada, Biệt thự Pamphilj, sang đại lộ 20 tháng 9, đại lộ Trastevere và đường Appia Nuova. Sau đó, chúng chiếm cứ các cây ven sông ở hữu ngạn của Tiber, giữa cầu Matteotti và cầu Thiên Thần,[251] để sau cùng tràn ngập được cả hai bờ. Trong các mùa di cư, chúng thường gây ra tai nạn đâm vào động cơ máy bay tại các phi trường của thành phố cũng như vấn đề với thải phân ở các di tích du lịch biểu tượng.[252][253] Vài năm trở lại đây, loài mòng biển từ ngoài khơi đã xâm lược vào sâu trong trung tâm Roma do sự quản lý yếu kém của thành phố, những bãi rác và thức ăn thừa trở nên hấp dẫn và thu hút chúng, đồng thời tấn công và ăn thịt những loài chim khác như bồ câu hoặc sáo, mà theo các nhà chức trách, chúng ngày càng trở nên hung hăng hơn.[254][255][256]

Đài phun nước và cầu dẫn nước[sửa | sửa mã nguồn]

Đài phun nước Trevi bắt đầu được xây dựng từ thời La Mã cổ đại và được kiến trúc sư Nicola Salvi hoàn thành vào năm 1762 theo bản thiết kế gốc của Gian Lorenzo Bernini.

Roma còn sở hữu biệt danh là "Thành phố của những đài phun nước", với 50 đài phun nước tưởng niệm và hàng trăm đài phun vừa và nhỏ khác trên tổng số hơn 2000, nhiều hơn bất cứ thành phố nào khác trên thế giới, và các đài phun nước đã trở thành biểu tượng quen thuộc của Roma. Các đài phun nước ở Roma được xây dựng theo tất cả các phong cách khác nhau, từ cổ điển, trung cổ đến trường phái Baroquetân cổ điển. Chúng đã có mặt ở thành phố từ hơn 2.000 năm trước, cho thấy người La Mã cổ đại đã luôn có niềm đam mê lớn lao đối với nước dùng công cộng, từ hệ thống cầu dẫn nước đến các nhà tắm hơi cổ đại. Thời Đế quốc La Mã bấy giờ, vào năm 98 TCN, theo Sextus Julius Frontinus, vị quan cố vấn của La Mã và là người phụ trách quản lý giám hộ nguồn nước của thành phố, Roma có 9 hệ thống cầu dẫn nước, cung cấp nước dẫn đến 39 đài phun nước tưởng niệm và 591 đài phun nước công cộng dạng bồn nhỏ, không kể nguồn nước cung cấp cho hoàng gia, tắm rửa hay cho các địa chủ sở hữu biệt thự tư gia. Mỗi đài phun nước lớn đều được kết nối với hai cầu dẫn nước khác nhau, phòng trường hợp một hệ thống không hoạt động được do bảo trì.[257].

Sau nhiều thế kỷ suy vi, niềm đam mê này vẫn được lưu truyền và tiếp nối đến tận ngày nay qua việc xây dựng vô số các kiểu dáng đài phun hiện hữu khắp nơi trên các đường phố và quảng trường ở thủ đô, để lấy nước uống cũng như để trang trí mỹ quan đô thị. Xuyên suốt lịch sử, vấn đề vệ sinh dường như không hề khiến ai phải bận tâm, khi các nguồn nước (kể cả nước sông) được chắt lọc trong các bồn chứa đặc biệt và được xem là tốt đến mức các giáo hoàng cũng lấy để uống khi vi hành trong thành phố.[258][259]

Trong thế kỷ 17 và 18, các giáo hoàng tái tạo những đài phun nước La Mã tàn tích và xây dựng các đài phun nước mới nhằm đánh dấu thời kỳ của họ, mở ra thời hoàng kim cho các đài phun nước Roma. Như những bức tranh của Rubens, các đài phun nước Roma mang tính biểu hiện phong cách mới của nghệ thuật Baroque. Có rất nhiều nhân vật biểu tượng đầy tính cảm xúc và sức sống được đặt tại các đài phun nước. Ở những đài phun nước này, điêu khắc đã trở thành yếu tố chính, và nước được thêm vào đơn giản chỉ để tạo sự chuyển động và đóng vai trò trang trí cho các tác phẩm điêu khắc. Chúng giống như những khu vườn Baroque, là "một sự thể hiện đầy tự tin và quyền lực".[260]

Điêu khắc[sửa | sửa mã nguồn]

Roma nổi tiếng với những bức tượng, nhưng đặc biệt là những bức tượng có tính truyền cảm xúc cao, tức những "bức tượng biết nói". Chúng thường là những pho tượng cổ đã trở thành phương tiện truyền tải những lời diễn thuyết về các thảo luận chính trịxã hội, là nơi để mọi người cất lên tiếng nói về quan điểm của họ (thông thường là châm biếm trào phúng).[261] Có hai bức tượng nổi tiếng là: PasquinoMarforio, ngoài ra vẫn có 4 bức tượng khác đáng chú ý là il Babuino, Madama Lucrezia, il FacchinoAbbot Luigi. Hầu hết những bức tượng đều từ thời La Mã cổ đại hay từ thời cổ điển, phần lớn trong số đó miêu tả những nhân vật trong thần thoại; il Pasquino đại diện Menelaus, Abbot Luigi – một thẩm phán La Mã bí ẩn, il Babuino đại diện cho Silenus, Marforio đại diện cho Oceanus, Madama Lucrezia là một bức tượng bán thân của Isis, và il Facchino là bức tượng duy nhất không phải của La Mã, được tạo thành trong năm 1580, và không đại diện riêng cho bất cứ nhân vật nào. Những bức tượng thường được phủ đầy áp phích hoặc những hình vẽ tranh phun sơn hay 'graffiti' bày tỏ ý tưởng và quan điểm chính trị. Những bức tượng khác trong thành phố không phải tượng bộc lộ cảm xúc và quan điểm gồm Cầu Thiên Thần, hoặc một số di tích nằm rải rác trong thành phố, như Giordano BrunoCampo de'Fiori.[262][263][264]

Bút tháp và cột tưởng niệm[sửa | sửa mã nguồn]

Roma là nơi lưu giữ nhiều bút tháp (obelisk) nhất trên thế giới. Thành phố có 8 bút tháp cổ Ai Cập (trong đó Lateranese tại Quảng trường Thánh Gioan Latêranô là bút tháp Ai Cập lớn nhất thế giới) và 5 bút tháp La Mã cổ đại cùng một số khác hiện đại hơn; thành phố cũng đã từng lưu giữ bút tháp Axum của Ethiopia cho đến khi hoàn trả vào năm 2005.[265] Các bút tháp chủ yếu được đặt tại các quảng trường lớn, chẳng hạn như tại Quảng trường Navona, Quảng trường Thánh Phêrô, Quảng trường Montecitorio, Quảng trường Nhân Dân và những tháp tưởng niệm khác trong các biệt thự, nhà tắm công cộng và trong các khu vườn, công viên, chẳng hạn như ở biệt thự Celimontana, nhà tắm công cộng Diocletianus và ngọn đồi Pincius.

Ngoài ra, trung tâm của Roma cũng là nơi có hai cột tưởng niệm La Mã cổ đại là Cột TraianusCột Marcus Aurelius với bề ngoài được trang trí theo dạng xoắn ốc nhẹ. Cột Marcus Aurelius được đặt tại Quảng trường Colonna do Hoàng đế Commodus dựng nên vào năm 180 để tưởng nhớ cha mẹ của mình. Cột tưởng niệm này được lấy cảm hứng từ Cột Traianus tại Công trường Traianus, một phần của Công trường Hoàng đế.[266]

Cầu[sửa | sửa mã nguồn]

Cầu Vittorio Emanuele II khi mặt trời lặn.

Thành phố Roma có rất nhiều cây cầu nổi tiếng bắc qua sông Tiber. Cây cầu duy nhất còn tồn tại nguyên bản cho tới ngày nay không bị thay đổi là Cầu Fabricius có từ thời cổ đại, nối đảo Tiberina với bờ tả ngạn của dòng sông. Những cây cầu La Mã khác bắc ngang qua sông Tiber còn tồn tại là Cầu Cestio, Cầu Thiên ThầnCầu Milvio dù cho chúng đã chịu sự thay đổi. Xem xét Cầu Nomentano bắc ngang sông Aniene được xây dựng trong thời La Mã cổ đại, do đó còn sót lại 5 cây cầu La Mã cổ đại trong thành phố vẫn tồn tại đến ngày nay.[267] Những cây cầu đáng chú ý khác là Cầu Sisto, cây cầu đầu tiên được xây dựng vào thời Phục Hưng trên nền móng La Mã; Cầu Rotto, thực sự là vòm cung duy nhất còn sót lại của Cầu Aemilius cổ đại, đã sụp trong trận lụt năm 1598 và bị phá hủy vào cuối thế kỷ 19; và Cầu Vittorio Emanuele II, một cây cầu hiện đại nối liền đường lớn Vittorio Emanuele và phường Borgo. Hầu hết các cây cầu công cộng của thành phố được xây dựng theo phong cách cổ điển hoặc Phục Hưng, nhưng cũng theo phong cách Baroque, Tân cổ điển và Hiện đại. Theo Encyclopædia Britannica, cây cầu cổ đẹp nhất còn lại ở Roma là Cầu Thiên Thần, được hoàn thành vào năm 135 và được trang trí với mười bức tượng của các thiên thần, được Gian Lorenzo Bernini thiết kế vào năm 1688.[268]

Cổ mộ[